CHUYỆN Y HỌC TRONG KIỀU



Cành hoa trong những cơn bão tố!
Đọc truyện Kiều, ai cũng cảm thương cho cái khổ của nhân vật Thúy Kiều. Nàng khổ về thể xác và khổ về tinh thần. Nói về khổ thể xác thì người ta nghĩ đến sự đau đớn do những trận đòn mà Kiều phải chịu. Mà nói đến sự đau tức là phải nói đến chuyện thuốc men hay sự điều trị y khoa. Do đó, nói chuyện Y học trong cuốn Kiều không những là mới mẻ mà là một sự khảo sát một tác phẩm thời danh về phương diện kỹ thuật văn hóa cổ thời.
Tuy nhiên, người ta thấy Nguyễn Du hầu như không nói tới nhiều đến khía cạnh thực tế y khoa, lý do là cụ chỉ muốn giản lược những chi tiết quá thực tế trong nguyên tác Hoa ngữ Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, mà ngược lại nếu cần, cụ chỉ miêu tả chúng bằng những ẩn dụ văn chương.
Đọc kỹ truyện Thúy Kiều, ta thấy nàng kỹ nữ họ Vương đã chịu cả thẩy ba trận đòn :
_ lân thứ nhất bị Tú bà đánh bằng roi da (bì tiên)
_lân thứ hai bị lính quan phủ đánh bằng gậy gỗ (mộc trượng)
_ lần thứ ba bị Hoạn bà đánh bằng gậy tre ( trúc côn)
* Trận đòn roi da khủng khiếp nhất làm “thịt đổ, máu sa” mà Nguyễn Du đã miêu tả như sau:
Hung hăng chẳng hỏi chẳng tra,
Đang tay vùi liễu dập hoa tơi bời.
Thịt da ai cũng là người,
Uốn lưng thịt đổ, dập đầu máu sa.

* Trận đòn bằng trượng gỗ tại phủ quan kém ghê rợn nhưng làm rơi lắm lệ và mặt mày hoa lem luốc :
Dạy rằng cứ phép gia hình,
Ba cây chập lại một cành mẫu đơn.
Phận đành chi dám kêu oan,
Đào hoen quẹn má liễu tan tác mày.
Một sân lầm cát đã đầy,
Gương lờ nước thủy, mai gầy vóc sương.
* Trận đòn bằng gậy tre ở phủ Hoạn bà đã làm da thịt của Thúy Kiều nát ra:
A hoàn trên dưới dạ ran,
Dẫu rằng trăm miệng khôn phân lẽ nào.
Trúc côn ra sức đập vào,
Thịt nào chẳng nát, gan nào chẳng kinh.
Xót thay đào lý một cành,
Một phen mưa gió, tan tành một phen.
Dưới sự miêu tả ẩn dụ của Nguyễn Du, kỹ nữ Vương Thúy Kiều là một cành hoa, nhành liễu, một đóa mẫu đơn, một cây đào lý dưới những trận đòn giáng xuống như cuồng phong bão tố. Bây giờ, chúng ta thử đi ngược về cuốn “Kim Vân Kiều truyện” của Thanh Tâm Tài Tử viết bằng Hán tự để tìm hiểu những khía cạnh thực tế khi Thúy Kiều bị đòn ra sao?
Ngược giòng về nguyên tác Hán văn
Tôi xin trích dẫn ra những đoạn liên quan trong nguyên tác Hoa ngữ “ Kim Vân Kiều truyện” của Thanh Tâm Tài Tử được Tô Nam Nguyễn đình Diệm dịch ra Việt Ngữ (Văn Hóa tùng thư – Nha Văn Hóa, Phủ Quốc-Vụ-Khanh Đặc –trách Văn-Hóa xuất bản 1971):
* Về trận đòn roi da tại nhà Tú bà (hồi X):
Khi về đến nhà, mụ Tú sai lôi nàng vào trong xó, lột hết áo quần, cả đến mảnh vải quấn chân cũng tháo trơn trọi, rồi dùng dây thừng quàng vào trước ngực, ruồn sang qua nách, bắt tréo về sau lưng, rồi buộc chặt hai đầu ngón tay cái treo lên xà nhà, để cách mặt đất ba tấc, chỉ đủ cho đầu ngón chân chấm tới mặt đất. Còn mình mảy thì để lõa lồ chỉ còn sót lại có một cái khố, khiến nàng hổ thẹn muốn chết. Nhưng tính mệnh lúc ấy ở trong tay người thì
làm thế nào? Nên đành nhắm nghiền hai mắt để mặc chúng hành hạ mà thôi.
Tú bà dợt đòn trên Kiều cả thẩy ba lần, mỗi lần hai ba chục roi da… mà “mỗi một roi vút, tức thì một lần tấm thân bị quay, luôn luôn quay tít chẳng dừng” Nói theo tiếng lóng hiện đại, Tú bà bắt Thúy Kiều đi “máy bay”.
Lần cuối, Tú bà toan đánh thêm 100 roi nữa nhưng mụ vừa đánh được 2. 3 roi thì thân thể nàng quay tít như cái chong chóng, 10 đầu ngón tay, máy chẩy ròng ròng, đầu tóc xõa xuống rũ rượi, nước bọt trong miệng trào ra, máu cũng theo giọt nước mắt chảy xuống. Chị em đồng nghiệp trông thấy quang cảnh như vậy, nhất tề quỳ xuống xin tha cho nàng.
* Về trận đòn bằng trượng cây ở công đường phủ quan, tôi thấy có một sự sai biệt: Trong cuốn Kiều của Nguyễn Du, Thúy Kiều bị quan phủ sai lính đánh ra oai phủ đầu bằng một trận đòn mộc côn trước khi xét xử:
Trông lên mặt sắt đen sì,
Lập nghiêm trước đã ra uy nặng lời
…….
Suy trong tình trạng bên nguyên
Bên nào thì cũng chưa yên bề nào
Nhưng đọc lại Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm tài tử ( hồi XII), tôi không thấy có trận đòn nào mà chỉ thấy sự việc xảy ra như sau: Quan phủ bèn sai lính đem chiếc gông ra rồi bảo Kiều: “một là phải chịu phạt đòn và chịu gông cùm một tháng. hai là lại phó trở về lầu xanh.”Trong hai điều ấy tùy ý phải chọn lấy một..Thúy Kiều rằng”Bẩm quan con xin cam chịu hình phạt”. Nói xong lập tức chụp gông vào cổ.”Nên quan phủ thương tình bảo Thúy Kiều làm thơ vịnh cái gông, nếu nghe hay thì thả cho về. Thúy Kiều vâng lời và làm bài Hoàng Oanh nhi khúc tả cái gông quá hay nên không bị đòn và thả cho về làm vợ bé của Thúc sinh.
* Về trận đòn gậy tre ở nhà Hoạn bà, Thanh Tâm tài tử viết:
“Phu nhân lại quát: ….Con hầu bay đâu, hãy lôi nó ra đánh cho chí tử nghe! Thị tỳ hai bên dạ ran một tiếng, rồi chúng vật này xuống đất, đứa giữ tay, đứa giữ chân, đứa thì đè đầu, một đứa hô tiếng dơ roi, một đứa quỳ xuống để đếm, tức thì cặp roi bắt đầu nện xuống, nàng chỉ kịp nấc lên một tiếng, thì da mông nón lên như lửa đốt, hồn phách đã xiêu lạc mất rồi. Rồi cặp roi tre cứ đập luôn xuống một chỗ đến 15 lần, làm da rách máu tuôn. Thúy Kiều chịu đến roi thứ 20 thì “tắt thở”nên được phun nước vào mặt cho tỉnh.
Truyện Kiều là một tiểu thuyết phong tục
Như vậy, sau những trận đòn khủng khiếp, Thúy Kiều được chữa trị ra sao?
Nguyễn Du trong vần thơ nôm phóng tác đương nhiên không tả chi tiết mà chỉ giản lược trong tinh thần ước lệ ẩn dụ của giòng thơ tao nhã.
Dẫu sao, với mục đích khảo sát một tác phẩm văn học, ngoài chuyện ngâm nga vần điệu để cảm thương cho số kiếp đoạn trường của nhân vật chính, chúng ta cần phải đi sâu hơn vào những khía cạnh thực tế kỹ thuật khác liên quan đến bối cảnh môi trường mà câu truyện được dựng nên. Bên cạnh những triết lý Nho và Phật siêu hình về Thiên mệnh và Nghiệp báo mà người ta từng quen biện luận về chuyện Kiều, nhiều chi tiết khác về văn hóa và lịch sử địa dư và kỹ thuật cũng phải được hậu sinh phân tách:
Học giả Hoàng Xuân Hãn đọc câu:
Đêm thu gió lọt song đào,
Nửa vành trăng khuyết ba sao giữa trời
đã dùng Thiên văn học mà phỏng tính thời điểm Thúy Kiều bị hai tên côn đồ Khuyển Ưng bắt cóc. Lê Ngọc Trụ và Trần Thượng Thủ đã vạch lại khoảng cách địa lý trên bộ và hải trình từ Lâm Truy đem về Vô Tích bao xa. Giáo sư Y khoa Nguyễn đình Cát đã “Phân tách nước mắt của nàng Kiều”. Cá nhân tôi cũng mạo muội viết về “Chuyện mua bán và kinh tế trong Kiều”. Tóm lại, truyện Kiều là một kho tàng để hậu sinh khảo sát phân tách để tìm hiểu nhiều khía cạnh về lịch sử nhân văn phong tục.
Đọc kỹ cuốn Kim Vân Kiều của Thanh Tâm Tài tử, tôi thấy cuốn này quả là một tiểu thuyết phong tục (roman de moeurs) như những cuốn tiểu thuyết Trung Hoa khác như Kim Bình Mai, Hồng Lâu Mộng,… cốt truyện là hư cấu nhưng bối cảnh và tình tiết phản ánh nhiều phong tục tập quán đương thời. Khi nhà thơ Việt Nam Nguyễn Du phóng tác truyện Kiều của Trung hoa, cụ đã lạng đi rất nhiều chi tiết bạc nhạc rườm rà luộm thuộm trong nguyên tác mà nhắm mục đích cốt yếu là “Việt Nam hóa” nàng Kiều với những vần thơ bóng bảy để cụ dãi bầy tâm sự của mình. Do đó, ngoài những danh từ tục về “bẩy chữ tám nghề “ cần lướt qua để gìn giữ cái thanh nhã văn chương, Nguyễn Du đã cắt bớt rất nhiều chi tiết lỉnh kỉnh về nàng Thúy Kiều Tàu như ngồi nhậu với Kim Trọng bằng rượu hâm với cá rán, và chơi trò thách làm thơ phạt rượu, những giao kèo hôn ước, những bài thơ vịnh trò vui ném đầu hồ phạt rượu của Thúc sinh, nhũng chi tiết về cuộc hành hình khi xử án… Chẳng hạn cuộc mua bán mặc cả khi Thúy Kiều bán mình lấy tiền chuộc cha dài giòng đến một hai trương giấy trong nguyên tác thì Nguyễn Du chỉ tóm gọn bằng một câu:
Cò kè bớt một thêm hai,
Giờ lâu ngả giá, vàng ngoài bốn trăm!
Tuy nhiên, sự dài giòng của nguyên tác Kim Vân Kiều của Thanh Tâm Tài tử đã đặc biệt có ích cho chúng ta khi tìm hiểu về phương diện Y khoa vào thời Thúy Kiều sinh sống dưới triều Minh vào thế kỷ 16 ở Trung quốc. Một điều ta cần nói là vào thời đó nền Trung Y với giá trị hầu như bất biến từ thời xa xưa so với thời cận đại hay hiện kim không mấy gì thay đổi. Có thể nói điều này cũng vẫn áp dụng ở Việt Nam trước khi văn hóa Âu Tây xâm nhập vào nước ta. Chính vì đặc điểm này mà tôi muốn mở ra một khảo sát chi tiết gọi là nói chuyện “Y học trong Kiều”.
Tôi xin lần lượt đề cập đến những tiêu điểm sau:
a. Kiều được điều trị như thế nào về ngoại thương qua trường hợp nàng dùng dao cắt cổ tự vẫn và sau khi bị đánh đòn.
b. Một số nghi vấn y khoa về sự ngụy tạo luật-y trên cái thanh tân trinh nữ, về thuốc mê của Khuyển Ưng, về cái chết đứng của Từ Hải
c. Vài khía cạnh Trung Y liên quan đến người phụ nữ sinh sống trong giới bán phấn buôn hương vào triều đại nhà Minh.
A. Điều trị cấp cứu và thuốc thang hồi phục
1- Từ nước gừng hồi tỉnh qua Kim Sang tán đến những dược thảo chỉ huyết…
Trung Y chia những thương tích như sau: Chưởng trúng sang ( bị thương do tay), hội sang ( vết thương vỡ ra), kim sang ( thương do vũ khí kim loại), chiết sang ( bị thương gẫy đứt)
Đoạn phim về khúc Thúy Kiều lấy dao dấu sẵn trong người ra tự cắt cổ khi Tú bà dùng roi da đánh lúc mới đến Lâm Truy chỉ được Nguyễn Du miêu tảsự điều trị cứu thương một cách giản lược:
Cắt người coi sóc rước thầy thuốc men.
và:
Thuốc thang suốt một ngày thâu,
Giấc mê nghe đã dầu dầu vừa tan.
Thanh Tâm tài tử tả chi tiết hơn, nhờ vậy mà chúng ta biết rõ về vết thương và về cách cứu cấp như thế nào:
Còn mụ Tú thì gọi một người nhà đến nâng đầu Thúy Kiều, và hai người nữa đặt nàng lên tấm cánh cửa, khe khẽ đưa vào trong phòng, trải nệm đắp chăn cẩn thận. Bấy giờ mụ mới khẽ sờ bụng nàng, thấy còn hơi nóng, vội vàng sai lấy nước gừng đến rồi nậy hàm răng đổ vào dần dần. May mà cổ dẫu bị thương, nhưng phần cuống họng chưa đứt, nước gừng còn chảy xuống được. Lúc ấy vào quãng giờ Tị (nửa buổi), săn sóc đến quãng nhá nhem, thốt nhiên thấy nàng thở dài một tiếng. Mụ Tú mừng rỡ nói:” Tạ ơn trời đất phù hộ, có cơ sống lại được rồi”. Rồi mụ cho mời một ông lang chuyên môn về mặt đao thương đến. Thầy rắc thuốc Kim sang vào chỗ vết thương, buộc đoạn lụa trắng bên ngoài, hẹn rằng không được dụng chạm vào đó, và đưa cho hai liều thuốc bảo uống ngay một liều, còn một liều đợi đến canh năm, thế nào bệnh nhân cũng hồi tỉnh, bấy giờ hãy cho uống nốt. Nhưng có điều can hệ nhất là trong vòng 130 ngày, chớ nên làm cho bệnh nhân tức giận. Nếu để một phen uất hận nổi lên, thì chỗ vết thương lại nứt toang ra, không còn gì cứu vãn được nữa.
Qua đoạn văn trên, ta thấy một sự ứng chế dùng cánh cửa là cáng tạm thời để khiêng nạn nhân, sự dùng nước gừng để làm hồi tỉnh, và dùng thuốc Kim sang để cầm máu.
* Về sự dùng nước gừng thì người bình dân Trung hoa hay Việt nam ta vẫn quen dùng lúc cấp cứu khi nạn nhân còn khả năng uống nước và nuốt được. Củ gừng tầm thường là vị thuốc quí. Nó đã hiện diện trong Toa thuốc Hồi Dương cứu cấp thang trong Thương hàn lục thư (gồm những phụ tử, can khương, nhục quế, nhân sâm, sao bạch truật, phục linh, trần bì, chích cam thảo, ngũ vị tử, bán hạ) để kích thích cho mạch máu đập lại cho nạn nhân bị xỉu.
* Về thuốc bột Kim sang là nhiều thứ thảo dược nghiền ra để rắc vào vết thương do đao thương để cầm máu và trừ độc. Theo kinh nghiệm lâm sàng, vết cứa cổ của Thúy Kiều cắt vào khá cạn nằm ở phía cuống hầu nên không đụng vào hai cảnh- động mạch ( carotid) nếu không thì nàng đã dứt kiếp đoạn trường rồi, chỉ có giải phẫu mới cứu được thôi. Có những người cắt cổ gà vụng làm gà chỉ bị cắt cuống hầu còn dẫy dụa vùng lên bỏ chay te te! Chúng ta chưa biết thành phần của Kim Sang tán nhưng cũng đoán được nó gồm những thứ có công hiệu cầm máu và trừ độc trong kho thảo dược của Đông Y. Dùng ngoài da, ta thấy có những thứ mà dân quê ta thường có kinh nghiệm rịt để cầm máu ngay như mồ hóng, mạng nhện, bột than đốt của nang mực v.v… Trong thư tịch của Đông Y, người ta có thể tìm nhiều thứ thảo dược có đặc tính cầm máu mà khoa học hiện đại công nhận là đúng như cây cẩu tích (Cibotium barometz-J. Sm ) ,Cỏ mực ( Cỏ tháp bút, mộc tặc, hạn liên thảo – Equisetum herba Linn), Cây dành dành ( chi tử – Gardenia jasminoides Ellis) ,Cây hòe ( Sophora japonica Linn.), Bạch phàn ( Alum). (1)
[ Chú thích số 1: Vài chi tiết về các thảo dược cầm máu:
_ Rễ cây cẩu tích (Cibotium barometz-J. Sm)có nhìều lông màu vàng thường gọi là Lông cu ly hay Kim mao cẩu tích có hiệu lực cầm máu rất mau nên được dân quê vùng Đông Nam Á hay dùng. Đặc tính chỉ huyết là vì trên lông cu ly có nhiều lỗ vi ti ( multitude of pores).
_ Cỏ mực ( Cỏ tháp bút, mộc tặc, hạn liên thảo – Equisetum herba Linn), thường dùng trong trường hợp ho hay đái hoặc kiết ỵ ra máu... Thí nghiệm cho biết Cỏ mực có hiệu lực kháng khuẩn trên Cầu khuẩn Staphylococcus aureus và vi trùng kiết lỵ nhóm B; với tính chất thu liễm (astringent) và kháng viêm, cỏ mực có hiệu lực chỉ huyết và chận đứng sự viêm nhiễm.
_ Cây dành dành ( chi tử – Gardenia jasminoides Ellis) mà dân ta hay dùng trái giã ra lấy nước nhuộm vàng bánh trái thay vì nghệ thì hoa dành dành là một vị thuốc cầm máu nội tạng khi ho và đái ra máu.
_ Cây hòe ( Sophora japonica Linn.) mà hoa chứa nhiều nhiễm sắc vàng dùng làm thuốc nhuộm thì người ta dùng làm thuốc chỉ huyết cho những trường hợp ho, tiểu và đại ra máu, chảy máu cam, chảy máu ruột, trĩ nhờ nó chứa chất rutin mà đặc tính giống sinh tố P rất nổi tiếng trong sự điều trị những trường hợp những huyết mao quản bị dễ vỡ.
_ Vài khoáng chất cũng dùng bên ngoài để cầm máu ví dụ như Bạch phàn ( Alum) đắp ngoài da làm co rút những huyết mao quản và làm đông máu; nhờ đặc tính thu liễm ( astringent) và kháng viêm ( anti-inflammatory), nó rút nước từ tế bào nên tế bào teo khô lại, nó cũng làm giảm hoạt động những hạch ngoại tiết và sự rịn ra những viêm tiết chất (inflammatory exudate), nó lại tác dụng trên chất plasma protein để biến thành những chất kết tủa không tan trong nước nên làm khô những vết thương hay mô tế bào bị viêm. ]
Tóm lại, về vấn đề tại sao Kim Sang tán dùng bên ngoài cùng thuốc uống vào trong truyện Kiều lại công hiệu và gồm những thành phần gì thì chúng ta có thể đoán nó là một sự phối hợp của những vị thuốc kể trên vừa cầm máu vừa kháng viêm chăng? Điều này người viết xin nhờ ý kiến của các bậc thẩm quyền cao minh trên về phương diện “ chỉ huyết tễ” trong Đông Y.
2- Những thuốc “hành huyết” trong Kiều
Tra cứu lịch sử, truyện nàng Kiều dựng vào năm Gia Tĩnh nhà Minh ( 1522 – 1567). Nền y dược của Trung quốc đến thời đại nhà Minh đã tiến lên một cao điểm sáng lạn, điều này được minh chứng bằng sự ra đời của cuốn Bản Thảo Cương Mục của Lý Thời Trân ( 1518 – 1593) vào năm 1596. Cuốn này được công nhận thực sự có giá trị khoa học nổi tiếng vào thế kỷ 16 mà danh tiếng vang dội qua Tây phương.
Trở về với chuyện Y học trong Kiều, ta thấy cuốn Kim Vân Kiều của Thanh Tâm Tài tử còn hé lộ nhiều chi tiết về sự trị liệu thuốc men. Ta thấy mụ Tú bà một mặt đã độc ác đánh đập Thúy Kiều tàn nhẫn nhưng mặt khác sau đó lại dỗ dành và tinh khôn trong việc lo điều trị cho nàng vì Kiều là một mối lợi, một “cây tiền” mà mụ đã bỏ vốn ra đầu tư. Trước khi mụ giảng giải cho Kiều những mánh lới nhà nghề và công phu chăn gối, mụ đã lo o bế, chiều chuộng phục vụ tẩm bổ cho con mồi đắt giá của mình:
Mụ bảo nhà bếp lấy rượu ngon và các vị thuốc hành huyết như hồng hoa, tô mộc, đào nhân, nga truật, tam lăng đem sắc cho Thúy Kiều uống. Nhờ đó mà thân thể mỗi ngày mỗi thấy khỏe mạnh hơn lên.
Ta thấy lần này sau trận đòn roi da, Tú Bà không cho mời thầy lang tới như trường hợp cấp cứu xuất huyết do cứa cổ như lần trước mà chính tự mình điều khiển sự trị liệu cho Kiều. Tại sao? Hai điều đáng nêu ra:
a. Một là mụ rất kinh nghiệm trong nghệ thuật quất roi đa dể tra tấn dữ dằn khủng bố nạn nhân nhưng không làm trí mạng như mụ đã từng đánh những kỹ nữ khác để tuyệt đối tránh rắc rối với luật pháp quan nha. Nghệ thuật dùng roi của mụ tuyệt luân, ngó thì kinh khủng “ uốn lưng thịt đổ, dập đầu máu sa”, kỳ thực thì không làm rách da sâu để lại thẹo cùng mình và không làm loại gẫy xương làm cho què quặt; cách “dùng dây thừng quàng vào trước ngực, ruồn sang qua nách, bắt tréo về sau lưng, rồi buộc chặt hai đầu ngón tay cái treo lên xà nhà, để cách mặt đất ba tấc, chỉ đủ cho đầu ngón chân chấm tới mặt đất “ là một kỹ thuật đặc biệt, tiếng là buộc chặt hai ngón tay cái nhưng trọng lượng của Kiều không treo vào đó mà chuyền vào sợi thừng quàng qua ngực và ruồn qua nách nếu không thì hai ngón tay cái đã loại hẳn ra! Tra tấn không cẩn thận và sành nghệ thuật thì món hàng Thúy Kiều quí giá “ vàng bốn trăm” của Tú bà sau này đâu có được vương tôn công tử chiếu cố nữa và Thúy kiều mặt mày đầy sẹo lấy tay đâu mà gẩy đàn cho khách nghe nữa!!
b. Hai là mụ Tú bà rất sành sõi trong sự dùng những thảo dược có đặc tính “ hành huyết” trên, vì đã nhiều lần áp dụng cho họ. Vả lại, điều này cũng bắt nguồn từ một truyền thống dùng Đông Y một cách phổ thông trong dâân gian Trung Quốc và Việt Nam để điều trị những chứng bịnh thông thường trong hoàn cảnh điều trị tại gia.
Thuốc hành huyết là gì?
Đây là một quan niệm về y lý trong Đông Y đối với một cơ thể sau khi bị thương tích nặng do máu bầm ứ lại. Ta thấy ở đoạn sau khi Thúy Kiều bị trận đòn nhừ tử tại nhà Hoạn bà thì được giao cho một mụ già quản gia săn sóc, quan niệm trên được nói rõ hơn: Mụ già đỡ nàng vào phòng của mình, rồi bảo nhà bếp hâm rượu nóng pha một chút đường cho nàng uống. Nàng kêu nuốt không chạy cổ, mụ bảo đó là huyết độc hành hạ con tim, nếu không uống rượu hạ huyết thì sẽ bị chết…Nàng nghe mụ nói xuôi tai nên cũng gượng uống mấy chén, hơi rượu thấm xuống khiến nàng ngủ được một giấc ngon say. Cứ thế điều dưỡng mất hai tháng trời, vết thương roi được khỏi hẳn…
Muốn hành huyết thì căn bản là uống rượu hâm nóng vì “ tửu năng dẫn huyết”. Ngoài ra nếu nặng thì phải sử dụng nhiều thảo dược hành huyết khác kể trên.
Bây giờ, ta hãy duyệt qua những vị thuốc của Tú bà đó về phương diện dược động học:
_ Hồng hoa ( Carthamus tinctorius Linn.) : khí ấm, vị cay, không độc; khử ứ huyết và làm giảm đau, thường dùng trong toa điều kinh, đẻ khó, tích huyết tử cung hậu sản và sắc với rượu uống làm tan máu bầm.
_ Tô mộc ( cây gỗ vang – Caesalpinia sappan Linn.), khí bình, vị mặn ngọt, không độc, công dụng như trên trong trường hợp thương tích, sưng bầm máu. Ngoài ra, thí nghiệm khoa học mới cho thấy rằng nước sắc của tô mộc còn có tính kháng khuẩn với Stapylococcus, Salmonella, Shigella dysenteriae.
_ Đào Nhân ( Hột đào – Persicae semen ) tính bình, đắng ngọt, không độc; trị huyết bầm ứ do thương tích
_ Nga truật ( Ngải tím – Nghệ đen Curcuma zedoaria Rosc.) tính ấm, vị chua ngọt, hơi đắng, không độc, khử ứ huyết và tan độc nên dùng trị kinh nguyệt tích ứ và thương tích bầm tím.
_ Tam lăng ( Spargani rhizoma ) tính bình, vị đắng, công hiệu trị liệu như Nga truật.
Những vị thuốc “hành huyết” trong Đông Y khi phối hợp thành bài thuốc thường được gọi là “hoạt huyết tễ”. Hoạt huyết tễ có công dụng làm huyết chạy mạnh lên và trừ khử hiện tượng ứ máu. Có hai trường hợp: Khi máu không vận chuyển điều hòa qua các tạng phủ và kinh mạch mà trở thành lười biếng chậm chạp thì gọi là “ huyết trì” ( xuè zhi), còn vì những nguyên nhân bệnh lý, luồng huyết lưu thông vận chuyển bị tắc lại và ngưng chảy thì gọi là “huyết ứ” ( xuè yù). Đông Y so sánh sự “huyết ứ” như trường hợp một giòng sông bị phù sa đất cát lắng xuống nên hoàn toàn bế tắc.
Huyết ứ theo danh từ biện chứng Đông Y có thể phân biệt ra tùy theo tạng phủ âm dương trong cơ thể bị ảnh hưởng, tùy theo những yếu tố bệnh nguyên như hàn, nhiệt, hư, thực; tùy theo trình độ của bệnh tình như cấp tính, mạn tính, khinh chứng, trọng chứng…; tùy theo những biểu lộ ra như sưng tấy, đau nhức …
Nổi bật trong những yếu tố bệnh nguyên làm về huyết ứ là những trường hợp sau:
_ Phần “Khí “ trong cơ thể không điều hòa” như hư khí, ứ khí làm cho ứ huyết vì Khí (qi) là vị chủ soái điều khiển Huyết, nên Khí dẫn Huyết đi. Khi Khí không đủ sức vận chuyển Huyết, thì nó ứ lại trong các đường kinh lạc. Đây là trường hợp của chứng bán thân bất toại sau khi bị trúng phong ( post-stroke hemiplegia) xảy ra khi Khí hư nhược và Huyết thuyên tắc nên kinh lạc không lưu thông vì bị huyết ứ.
_ Yếu tố “Hàn” ( lạnh) làm máu không lưu thông thong thả nên dần dà khiến máu ngưng kết lại như trường hợp kinh nguyệt phụ nữ bế tắc, bụng nổi khối u và đau đớn. Sự trị liệu phải nhắm vào chiến thuật ôn kinh (sưởi ấm), trục hàn (đuổi lạnh), hoạt huyết thì giải quyết được sự huyết ứ và kinh nguyệt lại điều hòa.
_ Yếu tố “ Nhiệt”sung mãn quá làm huyết khô và đặc lại nên gây ra Huyết ứ. Nhiệt lại khiến cho máu hung hăng chảy vô kỷ luật ra ngoài qui luật kinh lạc nên có hiện tượng chẩy máu cam, khái huyết, thổ huyết, tiểu đại ra máu…
_ Những yếu tố bệnh nguyên khác gồm có ngoại thương, sanh đẻ, và giải phẫu.
Đứng trước nhiều nguyên nhân bệnh lý khác nhau và phức tạp như vậy, vị lương y phải định bệnh rõ ràng và dùng thuốc một cách thận trọng. Một điều rất hệ trọng là những toa thuốc hành huyết hay hoạt huyết gồm những vị thuốc công phá vào những tình trạng ngưng kết để phá vỡ và thông thoát, nên lương y phải cẩn tắc khi dùng cho những bệnh nhân yếu nhược và lão suy hay cho những người bị hư chứng. Cũng nên lưu ý rằng những toa hoạt huyết mạnh tối kỵ dùng cho những phụ nữ thai nghén vì dễ khiến lưu huyết trục thai. Lại nữa, thuốc hoạt huyết không nên dùng cho những bệnh nhân có tạng thể dễ xuất huyết.
Trong trường hợp Thúy Kiều, Tú bà chắc phải là người có kinh nghiệm nên mới dám bảo nhà bếp sắc những thứ thuốc hành huyết như hồng hoa, đào nhân, tô mộc, nga truật, tam lăng… Mụ quản gia già ở phủ Hoạn bà cũng vậy! Hoặc giả là trường hợp bị đả thương của Kiều chỉ nằm ở da thịt, gân cốt ngoại bộ chứ không làm bầm tím lục phủ ngũ tạng. Hơn nữa, Thúy Kiều là gái mới cập kê, thể lực còn phương cương, khả năng hồi phục rất mau nên dùng vài thứ hành huyết trị tại gia là hiệu nghiệm thôi, chứ chưa đến nỗi mời lương y dùng những liều thuốc chuyên môn như “Trật đả hoàn” gồm những thuốc cao cấp như đương qui, xuyên khung, nhũ hương, một dược…
Vài toa thuốc mỹ phẩm
Một điểm cần nói thêm là Thúy Kiều là “cây tiền” của mụ Tú bà nên sau khi dùng uống những thuốc hành huyết, da thịt của Kiều không những hết bầm tím mà lại trở nên hồng hào đẹp đẽ hơn vì quan niệm đàn ông bổ khí, đàn bà bổ huyết, mà đương qui là một vị bổ huyết cần thiết!. Theo tôi nghĩ trong công cuộc “ chuốt lục tô hồng” cho Kiều, mụ chắc còn có thể dùng thêm mỹ phẩm cho nàng nữa mà trong truyện không kể ra chăng? ( chằng hạn tra cứu sách thuốc tôi thấy vài toa mỹ phẩm sau : Toa Đương qui Thược dược tán dùng cho những phụ nữ thể tạng yếu và xanh hay mệt nhọc cùng là để tẩy vết nám quanh mắt mũi; toa Thanh thượng phòng phong thang để ngừa mụt, da xẩn đỏ và tròng trắng bị tia máu. ) Củ nghệ ( Uất kim _ Curcuma longa Linn ) là thứ bôi làm da mau lành và không gây sẹo. Nước đái con trai ( đồng tiện) chứa nhiều Nam kích thích tố dùng với nghệ là thuốc thoa bóp cho các sản phụ là da bụng săn lại không nhăn nhão)
Và đây là kết quả hồi phục của những vị thuốc hành huyết: Một hôm, Thúy Kiều tắm xong, Thúc sinh được dịp nhìn rõ chân tướng, tấm tắc khen rằng: Dong mạo đã tươi như hoa, da dẻ ấm êm như ngọc…nhất là khi thoạt tắm xong, phấn son trôi hết, để lại hình thái thiên nhiên, càng lô ra vẻ hiếm có ở đời . Chàng Thúc sinh nổi hứng bèn làm thơ ca tụng, trong đó có câu đáng tiền nhất là:
Mình băng phách quế hòa trong trẻo,
Băng tuyết hồn hoa nửa lấp lô!
Một vài nghi vấn y học trong Kiều
1. Thuốc mê của Khuyển Ưng
Trước hết là vấn đề thuốc mê gì được dùng đã khiến nàng Kiều mê man trong mười mấy ngày liền khi Khuyển Ưng bắt cóc nàng từ Lâm Truy đem về Vô tích. Trong câu 1645, Nguyễn Du nói:
Thuốc mê đâu đã tưới vào,
Mơ màng như giấc chiêm bao biét gì.
Kỳ thực, theo nguyên bản củaThanh Tâm tài tử, hai tên Khuyển Ưng đã bôi vào miệng một thứ thuốc độc khiến nàng ngây không nói năng được. Rồi chúng đỡ lên ngựa chạy miết 150 dặm dường rồi vực xuống thuyền ra cửa biển. Vì bị trúng thuốc độc, cho nên hai mắt trợn trừng mà không nói năng gì được, nhưng chúng biết nàng có tánh tiết liệt, nên không dám cho uống thuốc giải độc, cứ để nàng mê man bất tỉnh, rồi cho thuyền vượt ra bể. Chỉ sau mấy hôm đã về đến cửa Thái thương lại sang thuyền khác về huyện Vô Tích, đưa thẳng vào phủ họ Hoạn.
Thuốc mê gì đã dùng cho Kiều đã làm cho nàng nằm mơ màng suốt thời gian dài như vậy? Trong những truyện kiếm hiệp Trung hoa, chúng ta đôi khi thấy nói đến ở trong những hắc điếùm thường dùng những loại mê dược hay những thứ mê hồn hương. Vừa rồi, tôi xem TV thấy nói đến những điều bí mật chưa ai giải thích như hiện tượng Zombie do những phù thủy Vaudoo ở đảoHaiti khiến những nạn nhân chết đi rồi đem chôn, một thời gian sau thì được đào lên cho sống lại. Một học giả Mỹ nghi rằng giới phù thủy đã dùng gan mật của con cá nóc gai ngoài biển, loại cá này ở Nhật bản vài người vẫn ăn cho là ngon lắm, nhưng phải làm thịt cẩn thận, tuy nhiên cũng có nhiều truòng hợp trúng độc chết. Dr Sallet trong Tập san Đô Thành hiếu cổ ( Bulletin des Amis du Vieux Huê) số năm có viết trong bài Thuốc Mê nhắc đến loài rắn đẻn. Trong truyện Kiều, hai tên Khuyển Ưng là dân côn đồ sống trên mặt biển, biết đâu chúng đã biết dùng những thuốc độc gốc hải sản tương tự. Ngoài ra, trong kho dược liệu Trung Y, cũng thấy nói đến những mê-túy dược vượt qua tầm khả năng khảo sát nghiên cứu của chúng ta. Vậy tôi xin để tồn nghi.
2 – Hỏa thiêu cái thây vô chủ
Một vấn đề khác tạm gọi là Luật Y và Tội phạm học được nêu lên liên quan đến sự kiện Khuyển Ưng dùng một thây ma vô chủ đem quăng vào đám lửa để ngụy tạo làm thi thể của Thúy Kiều:
Sẵn thây vô chủ bên sông,
Đem vào để đó lộn sòng ai hay?
Vấn đề này được thi hành một cách tuyệt hảo nên không ai khám phá ra. Khuyển Ưng lột áo xác chết đổi cho Thúy Kiều giả làm đàn ông,rồi chúng chụp một cái mũ và quàng một áo vải xanh lên mình nàng rồi đỡ lên ngựa chạy ra cửa. Còn thây ma thì chúng tẩm dầu thông mà quăng trong đám nhà cháy, khiến người ta về sau :”
Trong tro thấy một đống xương cháy tàn,
Ngay tình ai biết mưu gian,
Hẳn nàng thôi lại, còn bàn rằng ai?
Vào thời xưa, ở Trung Hoa và Việt Nam, nhà cầm quyền đã có những phương pháp điều tra thực giả khi khám xét nhữngtử thi như chúng ta xem trong phim về chuyện Bao Công tra án. Tôi nhớ hình như bác sĩ Dương Bá Bành có trình luận án y khoa tiến sĩ về phương diện luật y gọi là Tẩy Oan Lục ( Tài liệu ghi chép về phương pháp làm sáng tỏ để rửa nhữngđiều oan ức). Với phương pháp xưa, trước một thây ma còn tương đối nguyên vẹn hình hài hay chưa cháy hết thì quan tra án có thể biết được thây ma ấy chết trôi hay chết cháy qua sự rạch buồng phổi khám nghiệm coi xem sũng nước hay đen sạm vì khói, về coi xem đàn bà hay đàn ông thì coi xương chậu thì biết được phần nào. Trong Kiều thì đống xương hoàn toàn cháy tàn nên khó mà biết mưu gian
3- Ngụy tạo sự thanh tân của gái trinh
Một vấn đề luật y khác trong Kiều là sự ngụy tạo màng trinh ( xử nữ mạc) của phái nữ qua câu của Mã Giám sinh:
Nước vỏ lựu, máu mào gà
Mượn màu chiêu tập lại là còn nguyên
Mập mờ đánh lận con đen
Bao nhiêu cũng bấy nhiêu tiền mất chi?
Có điều lạ là tôi dò kỹ trong cuốn Kim Vân Kiều bằng Hán văn của Thanh tâm Tài Nhân lại không có câu nào đả động thật rõ. Bản dịch Việt ngữ của Tô Nam Nguyễn dình Diệm như sau:
Âu là ta hãy… rồi khi về đến hàng viện, ta lại mượn màu trang điểm, thì nó cũng vẫn hoàn nguyên.
Thành ra, đây là bằng chứng rằng Nguyễn Du là một người lịch lãm chuyện đời! Nhà thơ Việt Nam rõ ràng đã dựa vào kiến văn của mình mà nói thêm về mánh khóe ngụy tạo này từ cuốn sách nói về xóm Bình Khang. Biết đâu cụ Chánh sứ đã lén mua nó khi đi sang sứ bên Trung Hoa và nhét kỹ vào hành trang khi trở về nước . Bản Kiều của Kiều Oánh Mậu chú rõ như sau: “Trong chốn thanh lâu, sau khi tiếp khách xong thì dùng vỏ lựu đem sắc lấy nước rồi lấy máu trích ở mào gà ( là cốt lấy màu đỏ) đem mà rửa, giả làm gái tân. Điều đó thấy chép ở sách Bắc lý chí ”. (2)
[ Chú thích số 2: Bắc lý chí là sách gì vậy?
Tôi đã tìm thấy cuốn này ở thư viện Oriental Gest Library ở trường Đại học Princeton ở New Jersey. Tôi lại thấy sách này được R.H. Van Gulik nhắc rắt kỹ trong cuốn biên khảo Sexual Life in Ancient China: Bắc lý chí , như tên gọi là cuốn sách ký sự về xóm yên hoa ở thôn làng phía bắc ( Bắc Lý – Pei-li) của kinh dô Tràng An đời Đường ( 618 – 907 A.D.) còn gọi là Bình Khang lý (P’ing –k’ang –li) [sau này ở Sài gòn, nhóm Bình Xuyên đã dùng lại tên này]. Cuốn Bắc lý chí ( Pei-li-chih ) đuợc viết bởi Tôn Khải văn sĩ đời Đường đã tả kỹ về cái xã hội ăn chơi (demi-monde ) của những thư sinh lên Tràng An dự thí, thi rớt bất đắc chí ở lại miệt mài ăn chơi. Những gái làng chơi ở đây đi mạt hạng không biết chữ lên đến những kỹ nữ thượng lưu giỏi về đàn hát, vũ điệu, lại có người nổi danh thi phú hay như Từ Nguyệt Anh, Tiết Đào. Những mụ Tú bà ở đây được gọi là “giả mẫu” hay “bảo mẫu”, rất khắc nghiệt dạy những gái chơi nhiều tài nghệ phục vụ khách hàng dưới những làn roi tàn nhẫn. ]
Tra cứu về nước vỏ lựu và máu mào gà, tôi thấy trái cây thạch lựu ( Punica granatum) có vỏ gọi là Thạch lựu bì chứa nhiều tannin nên có tính thu liễm, kháng khuẩn, trị kiết lị; dân gian Trung hoa dùng để trị tiêu chảy, và bịnh sa hậu môn và chứng són đái. Nước vỏ lựu với tính thu liễm đã cầm máu và đặc biệt làm co rút âm đạo. Còn máu mồng gà ( Kê quan huyết), theo Bản thảo cang mục, có nhiều ứng dụng trong đó có sự trị đau vùng sinh thực khí và dùng dắp vào âm đạo khi bị rách vì bị hiếp dâm.(Blood from the comb: taken for painful genitalia, applied to lacerations of the vagina due to rape… Chinese Materia Medica by Bernard E. Read). Xem như vậy nước vỏ lựu phối hợp với máu mào gà từng là một phương pháp trị liệu hơn là một hình thức ngụy tạo sự thanh tân cũa người con gái!
Xin nói thêm: Nước sắc Hoa mồng gà (Quan kê hoa_ Celosia argentea Linn) cũng là một chất thu liễm và cầm máu dùng cho các gái trinh sau khi thành thân lần đầu ( curing continued bleeding as after-effect of a virgin’s first copulation and pain after defloration) Thư tịch Trung quốc rất phong phú với hàng chục trước tác về tính dục học tạm gọi là những dâm điển, dâm kinh qua nhiều triều đại, đọc lại rất thú vị về phương diện lịch sử và văn hóa cho chúng ta. Nhưng giá trị của những trước tác này trên phương diện thuần túy khoa học hiện đại vẫn là một diều cần khảo sát thực nghiệm lại, ví dụ trong cuốn Động Huyền tử chứa những phương dược sau: bên cạnh những thuốc trị những dau dớn sau khi màng trinh bị thủng còn có những thuốc làm lớn dương vật, thuốc làm hẹp âm đạo; lại có những phương thuốc nghe như huyền thoại bảo dảm biến một người dàn ông bình thường thành một hoạn quan bằng cách dùng mỡ hươu vì sách thuốc xác nhận rằng mỡ hươu ảnh hưởng mạnh đến sự cường tráng tính dục nên đàn ông chớ lại gần! ( trang 154 – Sexual life in Ancient China – Van Gulik).
4- Sự chết đứng của Từ Hải
Đọc Kiều ai cũng lấy làm lạ về hiện tượng chết đặc biệt này.
Khí thiêng khi đã về thần,
Nhơn nhơn còn đứng chôn chân giữ vòng.
Trơ như đá vững như đồng,
Ai lay chẳng chuyển, ai rung chẳng rời.
Theo y khoa, đối với người sống, người ta đôi lúc ghi nhận vài trường hợp bệnh nhân đứng sững như một tượng sáp gọi là hiện tượng giản quyết (catalepsis). Dorland’s Illustrated Medical Dictionary giải thích về Catalepsis như sau: “A condition characterized by a waxy rigidity ( flexibilitas cerea) of the muscles so that the patient tends to remain in any position in which he is placed; it occurs in organic and psychological disorders and under hypnosis”
Truyện Tàu nhiều sách nói đến những tráng sĩ dũng mãnh và tính nóng như lửa thuộc vào loại người “nộ khí xung thiên”, tóc râu dựng ngược lên khi nóng giận đến nỗi mão đội đầu phải rớt ra. Từ Hải chính là loại người này qua lời thơ tả:
Từ công nghe nói thủy chung,
Bất bình nổi trận đùng đùng sấm vang
Về phân loại về tính khí (humeur) thì Từ Hải thuộc “type sanguin”như Trương Phi, nóng giận mặt đỏ bừng và la hét đến nỗi nóc nhà văng cả ngói. Loại này dễ chết vì tai biến não mạch hay não bộ trúng phong ( cerebral apoplexy). Thành ra chuyện bị cơn giản quyết (catalepsis) làm cứng người vì uất hận tối đa rất có thể xảy ra cho Từ Hải khi bị vây hãm bất thình lình thành ra vô cùng tuyệt vọng. Từ Hải đã cứng người trước khi bị hằng trăm mũi tên ghim bắn vào làm cho chết hẳn chăng? Tôi xin thỉnh ý các ý kiến cao minh về giả thuyết này.
C- Những khía cạnh về y học trong xóm Bình Khang
1) Mạng lưới buôn người vào đời Minh
Truyện Kiều xảy vào đời nhà Minh, xuyên qua truyện này chúng ta thấy rằng mạng lưới mua con gái đem vào chốn lầu xanh dăng bủa khắp nơi như tên Mã Giám sinh di mua Kiều: Dạo tìm khắp chợ thì quê, Giả danh hầu hạ dạy nghề ăn chơi! khiến cho nàng phải lưu lạc từ Bắc Kinh qua Lâm Truy rồi xuống Vô tích ở vùng GiangNam. Giang Nam nói chung là phần đất đai nằm ở phía nam sông Tràng giang Dương tử từ nhiều triều đại đã nổi danh là trù phú thịnh vượng nhất là từ thời Nam Tống. Giang Nam là nơi thu hút những đế vương tìm xuống để du hí hành lạc , ví dụ như chuyện Càn Long du Giang Nam. Đại Vận Hà chính à con đuòng thủy đạo nối liền hai miền bắc và nam Trung Hoa, rất tiện cho sự thông thương. Từ thế kỷ 15, 16, Giang Nam lại thêm trù phú với sự tăng cường hoạt động của các hải cảng dọc duyên hải miền Nam, nền ngoại thương về các hàng hóa tơ lụa và những vật liệu khác được trao đổi rất nhộn nhịp ở đây.với . Sự buôn lậu cũng hoành hành ở đây cũng như nạn hải khấu cũng phát sinh, do đó mới có sự nổi dậy của Từ Hải. Cũng từ đó, mới có sự gặp gỡ giữa tướng cướp này với Thúy Kiều tại nhà điếm ở Châu Thai vùng Triết giang.
2) Những xóm Bình Khang vùng Giang Nam
Nam Kinh là kinh dô nhà Minh ở Giang Nam là một thành phố nổi danh có nhiều ổ điếm, nhất là ở bến Tần Hoài trên Đại Vận hà với những chiếc thuyền sơn sặc sỡ, kết hoa treo đèn gọi là Hoa phường, trên đó người ta ăn chơi hành lạc thâu đêm. Có nhiều cây bút ghi chép lại những việc xảy ra trong chốn thanh lâu vào triều Minh ở Nam kinh, Tô châu, Dương châu như Bản Kiều tạp ký của Dư Hoài, Tần Hoài sĩ nữ biểu của Tào Đại Chương v.v… Qua những tạp ký trên, người ta thấy những xóm bình khang đã ảnh hưởng mạnh về văn hóa vùng Giang Nam vì đây là nơi lai vãng chơi bời của giới học giả, văn thi và nghệ sĩ khiến cho vùng này nổi tiếng lịch lãm về sắc đẹp và tài nghệ của những kỹ nữ, nhiều khúc hát cũng như bản tấu khúc đã được sáng tác ở đây và còn lưu truyền đến thời nay. Thúy Kiều chính là một trong những mẫu người tài sắc trong đám kỹ nữ Giang Nam vậy. Tuy nhiên, cuộc đời hoa phấn trong rượu ngon và hát ngọt cũng có những khía cạnh đen tối của nó.
Khi tỉnh rượu lúc tàn canh,
Giật mình mình lại thương mình sót xa!
Nghề kỹ nữ là một nghề phải chiều chuộng và chung đụng thân xác với biết bao người mà mình không thích, nếu từ chối tránh sao cho khỏi roi vọt của Tú bà:
….
Hoa tươi bảo chắp cành khô
Mỹ nhân sánh với côn đồ cũng ưng.
Gặp thối miệng vổ răng khôn tránh,
Lở ghẻ hay bệnh tật chẳng nề.
Hễ mà hơi tỏ ý chê,
Ra tay đánh mắng tức thì chẳng sai.
Sống làm vợ muôn người chưa đủ,
Thác đi mồ vô chủ ai hay
( Bài” Khóc trời”, thơ của Tô Nam dịch bài “Khốc Hoàng thiên” trong nguyên tác)
3) Vành ngoài bẩy chữ vành trong tám nghề là gì?
Vấn đề huấn luyện để chiều chuộng khách trong giới bình khang là một chuyện ly kỳ do nhiều kinh nghiệm tích lũy nhiều đời của những Tú bà lão luyện truyền lại [ về sau được gom lại thành một bí kíp như cuốn Thượng hải phụ nữ nghiệp kính đài nằm trong bộ sưu tập Trung Hoa Đồ thư ký thành biên tập sách (1918)]. Tôi xin nói kỹ trong một bài sau. Một kỹ nữ muốn thành công phải hội đủ về 1) Sắc : Đẹp tự nhiên thì hiếm nên phải dựa vào cái đẹp nhân tạo như dung dáng, bộ tịch, lời ăn tiếng nói
2)Nghệ: Mánh lới cầm giữ khách
3) Tình: chơi đòn tâm lý giả thực nan phân về tình cảm với khách
4) Biến thái: Biết linh động biến hóa khôn lường để lừa bịp khách không thương tiếc.
Cũng nên nhắc đến một kỹ nữ danh tiếng cận đại Kang SuZhen ( Khang Tú chân ?) đã viết hồi ký đời mình qua cuốn Ngã đích Kỹ nữ Sinh hoạt ( Đởi kỹ nữ của tôi) và cuốn Thanh lâu hận phô bày những khía cạnh bi thảm của đời mình. Nàng đã tố cáo những tú bà đã cho những gái của mình uống thuốc để tuyệt đường sanh sản để càm chân họ tkhông thoát khỏi nghiệp gái giang hồ, khỏi toan tính chuyện hoàn lương , lấy chồng và sinh con đẻ cái nữa .
4)Hệ luy về y khoa trong đời những kỹ nữ
Những hệ lụy của cuộc đời kỹ nữ là ngoài sự bạc đãi của những Tú Bà là sự rủi mang thai và những bịnh phong tình.
a. Hệ lụy mang thai
Thai nghén là một tai nạn nghề nghiệp mà những kỹ nữ rất quan tâm cố tránh. Vào đời Minh, đàn ông đã dùng những bao bọc dương vật để ngừa thai gọi là âm giáp (yin chia) theo Van Gulik nhưng không mô tả hình thức và chất liệu ra sao . Trong chốn thanh lâu, như ta thấy, kỹ nữ thường dùng những toa thuốc hành huyết như Tú bà đã cho Thúy Kiều uống để điều hòa kinh nguyệt (emmenagogic).
Theo sách Tàu những thứ này dùng mạnh cho phụ nữ có thai sẽ trở thành xảo thai ( abortifacient), nhưng thực tế ra sao không thấy thư tịch y khoa nào xác nhận. Kinh nghiệm dân gian đôi lúc lại nói đến một vài thứ cây quen thuộc như rau răm ( Polygonum odoratum), hột Mãng cầu ( Annona squamosa), hột đu dủ (Carica papaya), lá và trái Bồ quân ( Flacourtia cataphracha)… mà những phụ nữ có thai cấm dùng.
Tuy nhiên, Trung Hoa lục địa có lẽ là quốc gia duy nhất hiện nay đang muốn nghiên cứu và áp dụng những kinh nghiệm cổ truyền dùng thảo mộc trong chương trình kế hoạch sinh sản trên bình diện dại qui mô cho cả nước. Trong cuốn Xích cước Y-sinh Thủ sách của Ủy ban Y tế cách mạng tỉnh Hồ Nam ( bản dịch Anh ngữ là A Barefoot Doctor’s Manual – Cloudburst Press of America Inc. 1977) có chỉ dẫn cho những thầy thuốc nông thôn (đi chân đất) vài toa thuốc dùng trong kế hoạch sanh sản nhưng chỉ dùng làm phương tiện phụ trợ thứ yếu sau thuốc viên, vòng xoắn… vì kết quả và công hiệu hạn chế đến một mức nào thôi ( effective to a certain extent!). Trong sách có dề ra nhiều toa ngừa thai như dùng các thứ cây sau: mã-vĩ tùng (Pinus Massoniana), tánh huyết liên (Coniogramme japonica), bát giác liên ( Dysosma auranticcaulis), thất diệp nhất chi hoa ( Paris polyphylle), trái Tông thụ ( Trachycarpus excelsa) … công dụng ngừa thai đến một năm(?); lại có vài toa uống để tuyệt sản (?)với các cây như Tông thụ (nói trên), Mãn thiên tinh ( Hydrocotyle rotundifolia), kim oạt nhĩ ( Carpesium divaricatum), .Tôi chưa kiếm ra thư tịch y khoa về sự lượng giá những thảo mộc trên về lâm sàng và thí nghiệm trên loài vật… Có lẽ vì vậy mà cuốn thủ sách y-sinh trên vẫn chủ trương dùng những phương pháp hiện đại như thuốc viên, vòng xoắn làm phương tiện chính yếu! (3)
[ Chú thích số 3: Về những khảo sát thí nghiệm hiện đại, một vài thứ đã gây chú ý đặc biệt như cây Dâm bụt hay Bông bụp ( Hibiscus rosa sinensis Linn.) được Pételot và nhiều tác giả ghi nhận về công hiệu điều kinh: ở Nam Dương, dâm bụt tăng cường với hột đu đủ ghi nhận làm trụy thai ( Burkill), Thí nghiệm của Kholkute và Udupa ( 1976) dùng trích ly của hoa dâm bụt trên các chuột bạch cái có thai từ 1 đến 10 ngày chứng minh dâm bụt đã ức chế sự đậu trứng ( nidation) hay chống lại sự bám trứng vào thành tử cung ( anti-implantation). Kholkute (1977) lại thí nghiệm dâm bụt trên chuột bạch đực chứng minh dâm bụt có tính chống nhất thời trên sự sản xuất tinh khí ( anti- spermatogenic effect). Ngoài ra còn có những thí nghiệm có kết quả đáng tin với hoạt lực chống sinh sản của những cây sầu đâu ( Azadirachta indica), cam thảo dây (Abrus precatorius), cây đuôi công trắng ( Plumbago zeylanica).]
b. Hệ lụy bệnh Phong tình
Bệnh phong tình trong ngôn ngữ Pháp là cú đá của thần Ái tình còn tiếngTrung Hoa gọi là “Phong Lưu bệnh” vì phần lớn là bệnh của những người phong lưu lăn lóc vào chơi trong chốn nguyệt hoa gồm những chứng lậu mủ, hạ cam và dương mai.
Về bịnh phong tình trong xóm bình khang, R.H. Van Gulik trong cuốn Sexual life in Ancient China viết trong chương Triều đại Minh như sau: Trong những thời đại trước, sự chung chạ tính giao với những kỹ nữ và gái điếm không bị rủi ro mắc phải chứng bệnh phong tình. Như đã nói ở chương VII trước, vài thể bệnh lậu mủ đã có thể xảy vào những thời xưa. Nhưng cho đến những năm cuối triều đại Minh, sự truyền nhiễm các chứng này không gây ra một tỷ số làm hoảng hốt. Những cơ hội nhiễm trùng bị giảm thiểu vì thói quen sạch sẽ mà dân Tầu thường có trong sự tính giao. Đọc những tiểu thuyết dâm tình đời Minh, ta thấy đàn ông và đàn bà quen rửa bô phận kín truóc và sau khi giao cấu, nhiều chất nhờn làm cho trơn ( lubricants) như chất thạch agar- agar ( su soa rau câu) bôi lên những vết thương nhỏ hay trầy da trên bộ phận kín đã ngừa nhiễm trùng. Đàn ông tùy lúc thường dùng một bọc phủ đầu bô phận của mình, gọi là âm giáp nói là để ngừa thai hơn là vì lý do vệ sinh. Tuy nhiên, vào khoảng đầu thế kỷ 16, một trận dịch giang mai đã phủ một màn đen trên cuộc sống vô tư lự này.
Sự khởi đầu và lan tràn của chứng binhphong tình đáng sợ này có thể lưu dấu trong một số sách y khoa đương thời. Lương y Du Biên trong phần tục biên của cuốn truóc tác Y thuyết ( in năm 1545 đã bàn luận về đặc tính trị liệu của cây sarsaparilla và nhận xét rằng: “ Vào những năm cuối đời Hoằng trị ( 1488 – 1505), dân gian bị tàn phá vì chứng binh ngoài da ác liệt khởi phát từ vùng Quảng Đông. Vì người dâncủa trung nguyên Trung Quốc không quen với bịnh nàynên gọi nó là Quảng sang hay cũng gọi là Dương Mai sang vì những chỗ lở hình dáng giống hoa dương mai.” Lương y nay đã tả chính xác những vết lở dương mai và những triệu chứng đi kèn và thêm rằng cây Sarsaparilla và thủy ngân trị liệu mau chóng cho các bệnh nhân. Những nhận xét của ông được xác nhận trong những truóc tác y khoa khác đương thời, một số còn thêm những truòng hợp lâm sàng đủ chi tiết.
Một trện dịch thứ hai xảy vào năm 1630 và được miêu tả chi tiết trong sách Mai sang bí lục do lương y Trần Tự Thành in vào năm 1632. Tất cả những nguồn thư tịch này gọi chứng bị là Quảng sang hay Dương mai sang.[ Theo Van Gulik, chữ Mai viết là hoa mai, nhưng cũng có sách viết là Môi là loại nấm. Hiện nay danh từ Mai độc hay Môi độc vẫn còn dùng ở Tầu và Nhật bản ( bai-doku)] Nhân chữ Quảng Sang, tôi xin nói về nguồn gốc của bệnh dương mai trên toàn thế giới. Các học giả một thời đã bàn cãi về chuyện dương mai nguyên từ trước chỉ phát khơiû và giới hạn ở vùng Hispaniola hay đảo Haiti, nhưng nhà thám hiểm Christopher Columbus đem đoàn thủy thủ khởi hành từ Seville vào tháng 8 năm 1492 qua Tân Thế giới (Mỹ châu) lần thứ hai ghé đảo Haiti rồi trở về Tây ban nha vào tháng ba năm 1493. Chính đám thủy thủ này đã đem dương mai mà truyền khắp Âu châu, rồi sau đó truyền khắp thế giới trong đó có Trung Hoa với hải cảng Quảng Đông, nên do đó mới có tên Quảng sang! Nhưng một số học giả khác tin ngược là dương mai đã hiện diện ở Cựu Thế giới từ xa xưa rồi. Thành ra về bàn luận về nguồn gốc bện dương mai có hai thuyết phái: phái hậu- Columbus và phái tiền- Columbus.
Dựa vào tờ hôn thư viết vào ngày 15 tháng 4 năm Gia tĩnh thứ 11 ( tương đương năm 1533 dương lịch) khi Thúy Kiều bán mình để làm tiểu thiếp của Mã Giám sinh, thì ta thấy nàng đã bắt đầu hành nghề kỹ nữ trong thời gian mà bệnh hoa liễu có thể mới sơ phát ở Trung Quốc vài thập niên truớc cuốn Y thuyết của Du Biên vào năm 1545. Thúy Kiều là kỹ nữ hạng thương lưu kén khách trong đám vương tôn công tử và biết cẩn thận giữ vệ sinh dùng thuốc rửa nên không bị nhiều rủi ro bị bệnh như nhóm những gái mãi dâm ( gọi là Phiêu) của xóm bình khang hạng bét như hồi ký của Gaspar da Cruz người Bồ đào nha đến Quảng đông năm 1556. [ Dựa vào những tiểu thuyết dâm tình của vài văn thi sĩ Tầu vào cuối đời Minh, một điều đáng để ý là tuy có tả nhiều chi tiết kỹ và rẻ tiền về sự tính giao, nhưng lại không nói đến những thác loạn bệnh lý như chứng cuồng dâm hay khổ dâm như dùng roi quất và chứng đồng tính luyến ái ]
Nói thêm về sự vệ sinh và trị bệnh phụ khoa, một toa thuốc cổ truyền (herbal washes)cho phụ nữ bơm trong rửa ngoài âm đạo gồm xà sàng tử, hoàng bá, khổ luyện tử, câu kỷ tử sắc lên pha với hàn the ( bạch phàn hay minh phàn _ aluminium potassium sulfate). Còn thuốc mỡ thoa thì pha dầu mè đen, đương qui, tử thảo với sáp ong vàng và mỡ heo để thoa trên những vết trầy hay thương tích, ngứa mẩn.
Trung hoa đã dùng thủy ngân sống và muối thủy ngân như Calomel (Mercurous chloride) gọi là Thủy ngân phấn hay Khinh Phấn để trị hoa liễu. Tuy nhiên những thứ này rất độc mà chỉ có hiệu quả chận đứng nhẹ vì không diệt nổi Spirochaeta pallida và còn gây nhiều vết da mẩn nên bị thay thế bằng những thuốc có muối thạch tín ( Arsenic trioxide) _ Arsenic được người Tàu gọi là Thạch Tín vì phần lớn đá này nguyên được khai thác ở tỉnh Tín châu ( Trung quốc). Theo sách Belles de Shanghai – Prostitution et sexualité en Chine aux Dix-neuvième et Vingtième siècles _ Christian Henriot , 1997, hai thứ thuốc dùng thạch tín như “606” ( six-cent- six)và “914” (neuf-cent- quatorze) còn được dùng đến mãi năm 1945 khi mới áp dụng thuốc trụ sinh.
Về cây Sarsaparilla dùng trị hoa liễu, thì tôi tra cứu những sách y dược Trung Hoa không thấy nói đến, nhưng Tổng hợp Anh Hán Đại Từ điển chú âm tên này là “Tán nhĩ sa” _ đọc là Xan –ơ- xa) dùng để trị liệu thấp khớp do bệnh Mai- độc; tự điển Larousse chú là cây này gốc ở Mễ và Á Châu. Giáo sư Phạm Hoàng Hộ nói người Pháp nhập cây này vào Việt Nam làm nước giải khát quen gọi là nước Xá xị ( Mỹ là root beer)!
Còn bệnh lậu mủ, trước khi dùng trụ sinh, tôi thấy trong cuốn Chinese Herbs của John D. Keys có sưu tầm một toa Trung y gồm những thứ sau : Ích mẫu hoa, Cỏ tranh, Sậy, Tim bấc, Mã đề, Thạch tùng, Bồ công anh, Quắc Mạch, Địa vị tử, Khổ sâm sắc lên uống, Hiệu quả ra sao thì không rõ, nhưng tôi kể ra làm tài liệu của y học Trung Hoa đã quan tâm điều trị bệnh này.
Qua cuốn Belles de Shanghai ( Những kiều nữ đất Thượng hải) của Christian Henriot về nạn mãi dâm tại Trung quốc vào hai thếkỷ XIX và XX, ta thấy rằng sự diều trị bệnh phong tình đã phần lớn chuyển qua thuốc Tây y với các thuốc dùng Arsenic và Bismuth trước thời đai cùng kháng sinh và trụ sinh. và nạn mãi dâm ở Trung quốc lục dịa vẫn tồn tại ngay dù sau năm 1949 một cách lén lút..
KẾT LUẬN
Chuyện y khoa trong Kiều là một đề tài táo bạo tôi mạo muội nêu ra dựa vào sự sưu tầm những tư liệu và những trước tác Trung Y. Tôi kỳ vọng rằng chúng soi rọi rất nhiều trong sự tìm hiểu những hệ lụy về nỗi đau đớn và bệnh tật trên thể xác của nhân vật Thúy Kiều.
Câu của Terence nói : Homo sum: humani nil a me alienum puto có nghĩa là “Tôi là người, cái gì liên quan đến người thì không xa lạ với tôi” câu này nào có khác gì lời thơ của Nguyễn Du “Thịt da ai cũng là người”! Do đó, cái đau khổ của một nguòi sống trước chúng ta hằng trăm năm dù thời thế có đổi thay, trình độ khoa học kỹ thuật có biến chuyển thì cái đau, cái khổ nào có khác gì cái đau mà chúng ta ngày nay đang có !
Bất tri tam bách dư niên hậu,
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như.
Những giòng lệ thương cảm của người đời sau không thể nào ứa ra khi chúng ta không có cùng một tần số tơ lòng với cổ nhân cọng với một sự tìm hiểu sâu xa.
Mục đích của y khoa là gìn giữ sức khỏe và chữa lành những bệnh (Littré). Nhưng đối với cái khổ đau và hệ lụy của kiếp người thì y khoa nào có giúp gì đâu, nhất lại là những điều khổ lụy lại do chính đồng loại của người gây ra như nhận định của Plaute (Homo homini lupus) mà Bacon và Hobbes nhắc lại : Người là lang thú đối với người! Ngày nào mà tình trạng này còn tồn tại thì ngày ấy những tiếng khóc đứt ruột mới mẻ còn văng vẳng vang lên. Và truyện Kiều đọc lên vẫn thấy hay và thấm thía đối với chúng ta!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét