CẨU QUẤT


Cây nhỡ, cao đến 7m, có gai thô, nhánh nhỏ uốn khắp cây, có góc cạnh, gai thô, vùng gốc hơi lép, dài 1-4cm, lá mọc đối, ba lá kép

CẨU QUẤT   枸 橘
Poncirus trifoliata Rafin.

Xuất xứ: Cương Mục Thập Di.
Tên Việt Nam: Trái Chỉ xác.
Tên khác: Xú quất (Cương Mục), Đường quất (Thực Vật Đại Từ Điển), Cẩu thổ chỉ thiệt, Thanh đán đán, Câu kết, Chỉ (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
Tên khoa học: Poncirus trifoliata Rafin.
Họ khoa học: Rutasceae.
Mô tả: Cây nhỡ, cao đến 7m, có gai thô, nhánh nhỏ uốn khắp cây, có góc cạnh, gai thô, vùng gốc hơi lép, dài 1-4cm, lá mọc đối, ba lá kép, cuống lá có dạng như lá nhỏ, lá ở đỉnh hình trứng ngược hoặc viên chùy dài khoảng 2,6-6cm. Hoa sinh ở nách, đường kính 3,5-4cm. Cánh hoa 5, màu trắng. Trái hình tròn màu vàng, đường kính 2,5-5cm.
Mô tả: Trong Đông dược vị này có khi dùng với tên Chỉ thực (xem: Chỉ Thực).
Đia lý: Cây này ít thấy ở Việt Nam, có nhiều ở Trung Quốc.
Phần dùng làm thuốc: Quả.
Mô tả dược liệu: Cẩu quất dùng quả khô, hình cầu, đường kính khoảng 15-30mm, bên ngoài màu cam vàng hoặc màu vàng lục, có nốt lồi dạng hạt nhỏ và đóm lõm vào, một đầu có vết lõm của cuống quả đã rơi rụng. Vùng gần đó thường có rãnh dọc cong queo, chất cứng, hơi có mùi thơm, loại để lâu ngày là tốt.
Thu hái, sơ chế: Thu hái vụ hè thu, xắt lát, phơi khô cất dùng.
Tính vị: Tính ấm, vị cay, có độc ít.
Chủ trị: Lỵ ra máu mủ, mót rặn đi nhiều lần, sình bụng, bón, tiêu hóa kém, đau khớp chân.
Cách dùng:  Dùng với Tỳ giải, 2 vị bằng nhau sao tồn tính, tán bột, uống 6g với nước trà. Trị viêm họng tiêu sưng.
Tham khảo:
. Cây còn cho gai gọi là Cẩu quất thích trị sâu ăn răng, dùng một chén sắc đặc đậm. Cho hạt gọi là Cẩu quất hạch trị ỉa ra máu không cầm (trường phong hạ huyết), cùng với Xư bạch bì 2 vị bằng nhau tán nhỏ lần uống chỉ với nước sắc Tạo giáp tử. Cho quả gọi là Cẩu quất thực, khi dùng chọn loại lâu năm mới tốt, có vị cay tính ấm, trị ung nhọt, sa ruột, giải độc rượu, các loại đau do nội thương lấy giấm dầm nấu cao dán vào. Vị này có tác dụng phá khí tán nhiệt (Dược Tính Nguyên Giải), có độc ít (Bản Thảo Cương Mục). Cây còn cho vỏ cây gọi là Cẩu quất thụ bì trúng gió nằm ngay đơ không co duỗi được, xắt nhỏ ngâm với 2 thăng rượu 1 đêm uống ấm hằng ngày. Lá trị ăn vào mửa ra, nghẹn nôn mửa (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
Phân biệt: Có nơi người ta dùng Cẩu quất với cây Aegle sepiaria, họ Rutaceae, có tác dụng  lý khí, kiện tỳ, thông tiện, lợi tiểu, khư phong, trừ đờm , kháng ung thư

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét