NGŨ BỘI TỬ


Ngũ bội tử là tổ của loài côn trùng thuộc giống Melaphia (Melaphis Bell Baker, Melaphis peitan Tseinet Tang) ký sinh trên cây Muối

NGŨ BỘI  TỬ    五 倍 子
Galla sinensis.

Xuất xứ : Bản Thảo Thập Di.
Tên khác : Diêm phu diệp thượng cầu tử (Nhật Hoa Tử Bản Thảo), Bách thương trùng, Văn cáp (Khai Bảo Bản Thảo), Mộc phụ tử (Hiện Đại Thực Dụng Trung Dược), Tất bội tử (Tứ Xuyên Trung Thảo Dược), Hồng hoa đào (Triết Giang Trung Thảo Dược), Tảo bội tử, Mã diêm bao (Hồ Bắc Trung Thảo Dược), Bầu bí (Dược Liệu Việt Nam).
Tên khoa học : Galla sinensis.
Họ khoa học : Đào lộn hột (Anacardiaceae).
Mô Tả : Ngũ bội tử là tổ của loài côn trùng thuộc giống Melaphia (Melaphis Bell Baker, Melaphis peitan Tseinet Tang) ký sinh trên cây Muối (Diêm phu mộc) (Rhus semialata Murr), hoặc các cây cùng giống thuộc họ Đào lộn hột (Anacardiaceae). Cây Muối nhỏ, lá kép lông chim lẻ, gồm 7-13 lá chét, lá mọc so le, cuống lá có dìa như cánh, trên có những lông ngắn màu vàng nâu nhạt. Lá chét không cuống, hình trứng, mép có răng cưa to, thô, dài 5-14cm, rộng 2,5-9cm. Hoa tự hình chùy mọc ở đầu cành dài 20-30cm. Hoa nhỏ màu trắng như sữa. Quả hạch màu vàng cam, có một hạt.
Địa lý : Mọc ở các tỉnh miền núi : Cao Lạng, Hà Tuyên, Hoàng Liên Sơn.
Bộ phận dùng : Bướu sùi của con sâu làm tổ trên cây. Túi khô cứng, nâu xám, không nát là tốt.
Thu hái, Sơ chế : Vào tháng 5 hoặc tháng 8. Sau khi lấy từ trên cây xuống, dùng nước sôi đun, quấy liên tục, làm cho mầu nâu vàng chuyển sang mầu tro (khoảng 3-5 phút), sâu ở trong chết, lấy ra, phơi khô hoặc phơi trong râm cho khô.
Bào chế :
Theo Trung Y: Thu hái về nấu cho chết những thứ sâm bám ở trong, phơi khô. Khi dùng đập nát.
Theo kinh nghiệm Việt Nam: Đập nát ra dùng. Hoặc tán bột, thêm hồ làm viên bằng hạt đậu xanh. Ngày uống 15 - 20 viên (trị tả lỵ).
Bảo quản: Chỉ cần tránh làm vụn nát.
Thành phần hóa học :
+ Thành phần chủ yếu là tanin (tannic acid), còn gọi là galotanic acid, chiếm tỉ lệ 50- 80%. Resin 2-4%, chất béo, tinh bột  (Những Cây Thuốc Và Vị Thuốc Việt Nam).
Tác dụng dược lý :
. Thuốc có nhiều chất tanin gây kết tủa albumin nên có tác dụng thu liễm làm lành các vết loét ngoài da, niêm mạc. Chất tanin có thể kết hợp vớl một số kim loại, ancaloid, glucozid, hình thành các hợp chất không hòa tan, vì thế có tác dụng giải độc đối với các loại thuốc có thàh phần như trên (Trung Dược Học).
. Tác dụng kháng khuẩn: nước sắc Ngũ bội tử có tác dụng ức chế hoặc giết chết in vitro nhiều loại vi khuẩn như tụ cầu vàng, liên cầu khuẩn, phế cầu khuẩn, trực khuẩn thương hàn, phó thương hàn, kiết lỵ, bạch hầu, trực khuẩn mủ xanh, virút cúm, chủng virút PR8 (Trung Dược Học).
Độc tính: Độc tính của thuốc: cho súc vật thí nghiêm uống nước sắc 100% Ngũ bội tử với liều 20g/kg không thấy có tác dụng gì biểu hiện. Nhưng với cùng liều trên mà cho chích dưới da thì sinh ra hoại tử tại chỗ, tinh thần kích động, khó thở và tử vong trong 24 giờ (Trung Dược Học).
Tính vị :
+ Vị  đắng, chua, tính bình, không độc (Khai Bảo Bản Thảo).
+ Vị chua, mặn, tính bình, không độc (Bản Thảo Cương Mục)
+ Vị mặn, chua, tính sáp, hàn (Bản Thảo Bị Yếu).
+ Vị chua, sáp, tính hàn (Trung Dược Học).
+ Vị chua, tính bình (Đông Dược Học Thiết Yếu).
Quy kinh :
+ Vào kinh Đại trường (Lôi Công Bào Chế Dược Tính Giải).
+ Vào kinh thủ Thái âm, túc Dương minh  (Bản Thảo Kinh Sơ ).
+  Vào kinh Can, Phế, Thận (Bản Thảo Tái Tân).
+ Vào kinh Phế, Đại trường, Thận (Trung Dược Học).
+ Vào kinh  Phế, Thận, Đại trường (Đông Dược Học Thiết Yếu).
Tác dụng :
+ Liễm Phế, cầm tiêu chảy, cầm mồ hôi, thu miệng nhọt (Đông Dược Học Thiết Yếu).
Chủ trị :
+ Trị ho do Phế hư, tiêu chảy kéo dài lòi dom, mồ hôi ra do hư nhược, xuất huyết, lở loét, sâu quảng, mụn nhọt, hắc lào (Đông Dược Học Thiết Yếu).
Kiêng kỵ :
+ Ho do ngoại tà gây nên và tiêu chảy, kiết lỵ thuộc chứng thực thì cấm dùng (Đông Dược Học Thiết Yếu).
Liều dùng : 3g - 9g.
Đơn thuốc kinh nghiệm :
+ Trị  trẻ em lòi dom: Ngũ bội tử, Địa du, tán nhỏ hòa với nước cơm hay nước cháo uống vào lúc đói (Ngũ Bội Tử Tán - Khiết Cổ Gia Tàng phương)
+ Trị xuất huyết đường tiêu hóa trên: Trần Vệ Tinh và cộng sự dùng Ngũ bội tử 6g,  sắc còn 100ml, chia 3 lần uống trong ngày. Bệnh nhân nôn ra máu thì nhịn ăn,  trường hợp không nôn, ăn theo chế độ lỏng, huyết sắc tố dưới 7g, cho truyền máu. Mỗi ngày theo dõi phân và làm thử nghiệm máu của phân. Tác giả trị xuất huyết đường tiêu hoá trên 33 ca, kết quả sau 1 tuần, thử nghiệm máu trong phân thấy chuyển sang âm tính 29 ca (91%), xuất huyết do táo bón: 9 ngày, chuyển sang âm tính 2 ca, 11 ngày chuyển âm tính 1 ca, 1 ca do ung thu dạ dày nên không kết quả (Triết Giang Trung Y Học Viện  Học Báo 1987, 6 :20).
+  Trị di tinh: Dương Hiếu dùng bột Ngũ bội tử trộn với nước muối sinh lý thành hồ lỏng, phết vào miếng cao dán 3x4cm, dán vào huyệt Tứ mãn. 3 ngày thay 1 lần, 3 lần là một liệu trình. Trị 35 ca, kết quả tốt 9 ca, có kết qủa 19 ca, không kết quả 7 ca (Tân Cương Trung Y Dược  Tạp Chí 1986, 4 : 4).
+ Trị sẹo do bỏng: Phòng Văn Bưu và cộng sự dùng Ngũ bội tử 8-100g, tán nhuyễn,  giấm đen 250ml, Ngô công 1 con tán bột, mật ong 18g, trộn đều thành cao, phết vào vải, dán vào vùng sẹo, băng lại. 5 ngày thay một lần cho đến khi sẹo mềm, hết triệu chứng, chức nàng hồi phục. Trị 10 ca đều kết quả (Tân Trung Y Tạp Chí 1986, 12 : 8).
+ Tri tưa miệng (muguet) : Tiết Duy Chấn dùng Ngũ bội tử 20g, Băng phiến 3g, tán bột mịn, trộn đều, thổi vào vùng bệnh, ngày 2 lần. Trị 20 ca, trong 2 ngày là khỏi (Hà Bắc Trung Y Tạp Chí 1987, 6 : 481).
+ Trị trĩ: Đặng Tuế Trân dùng Ngũ bội tử 500g, tán vụn ngâm vào 52,5% cồn 1 lít bỏ vào lọ, bịt kín, giữ trong 1-2 tháng, lọc nấu sôi vô trùng. Sau khi vô trùng hậu môn vùng trĩ , trực tiếp chích vào búi trĩ, bên trong uống thanh nhiệt, chỉ huyết, thông tiện. Giữ cho không táo bón, sau lúc đi tiêu ngâm rửa hậu môn với thuốc tím, thay thuốc dán cao Hoàng liên cho đến lúc trĩ rụng, miệng lành. Trị 80 ca đều khỏi (tạp chí Hồ Bắc Trung Y Tạp Chí 1984, 2 :'25).
+ Trị mồ hôi đêm: dùng bột Ngũ bội tử làm thành hồ, đắp lên  rốn bệnh nhân trước lúc ngủ. Đã trị 61 ca mồ hôi đêm đều bớt ở mức độ khác nhau (bệnh nhân lao hoặc lao biển chứng bụi phổi (sillcosis)
+ Trị đau bụng, tiêu lỏng: Ngũ bội tử tán bột, thêm hồ làm viên bằng hạt đậu xanh, ngày uống 15-20 viên với nước Bạc hà (Những Cây Thuốc Và Vị Thuốc Việt Nam).
+ Trị đái dầm: Ngũ bội tử giã nhỏ, thêm nước thành hồ đắp vào rốn (Những Cây Thuốc Và Vị Thuốc Việt Nam).
Tham khảo :     
+ Ngũ vị tử và Ngũ bội tử đều có vị chua. Nhưng Ngũ vị tử thiên về trị  ho, an thần, Ngũ bội tử thiên về cầm mồ hôi, cầm tiêu chảy. Ngũ vị tử phần nhiều uống trong, Ngũ bội tử hay về dùng ngoài để thu miệng những vết thương gây lở loét (Đông Dược Học Thiết Yếu).

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét