XẠ HƯƠNG


Xạ hương là một chất đặc lổn nhổn do hạch ở sát dương vật của một thứ cầy hương đực (có người còn gọi là hươu xạ) từ 3 tuổi trở lên (Moschus moschi-ferus L ) họ hươu xạ (Moschida).

XẠ HƯƠNG   射 香
Moschus moschiferus L. 

Tên thuốc: Moschus
Tên khoa học:Moschus moschiferus L. 
Bộ phận dùng: Xạ hương là một chất đặc lổn nhổn do hạch ở sát dương vật của một thứ cầy hương đực (có người còn gọi là hươu xạ) từ 3 tuổi trở lên (Moschus moschi-ferus L ) họ hươu xạ (Moschida). Con cầy hương giống con cầy cao chừng 50 cm,  dài 80 - 90cm, toàn thân màu vàng gio. Nó sống bằng những cây cỏ thơm, vì vậy người ta cho rằng nguồn gốc xạ là ở các cỏ thơm đó. Đi đến đâu nó tiết xạ để nhớ đường về.
Túi xạ ở phía bụng, khoảng 2cm trước chỗ bìu dái và trước dương vật. Hình dạng túi xạ thay đổi, khi thì hình tròn, khi thì dẹt trên phủ lông như những lông khác ở bụng con cầy hương; túi xạ có một điểm sâu, đường kính chừng 5mm, tất cả lông trông như đều hướng về điểm này.
Ngoài ra ở Việt Nam ta còn có loài cầy hương khác (Vicerricula malaccensi Gmelin) và cầy giông (Viverrazibetha, họ Viverridae), cũng có túi thơm nhỏ, người ta cũng lấy chế biến và gọi là xạ. Thứ xạ này không thơm và không tốt bằng xạ hương nói trên.
Thứ xạ thật giả theo kinh nghiệm nhân dân:
- Xạ thật có mùi thơm xộc ngay vào mũi, thơm lâu.
- Dùng móc lấy ráy tai cho vào trong túi xạ lấy ít xạ cho vào ngay mà vê, xạ thật thì nhiều đàn tính, mềm nhũn, viên lại thành tròn, bóp bẹp thành bột; thứ giả thì viên lại thành dài, không có đàn tính.
- Lấy chút ít xạ hương cho vào nước sôi một chốc lấy ra, xạ thật thì bã nó thơm mãi, thứ giả không thơm mà lại hôi.
- Phân biệt nguyên cả miếng xạ hương còn cả da, có thể dùng kim xăm vào thử xem có khối chắt cứng hoặc khối thịt. Nếu có vật cứng tức là họ cho chì vào để thêm nặng cân..
- Dùng sợi chỉ tơ tẩm vào nước hành tanh, lấy sợi chỉ đỏ xâu vào trôn kim, lấy kim xuyên qua túi xạ, xạ thật thì sợi chỉ không còn mùi tanh, thứ giả thì mùi tanh của hành mất đi rất ít.
- Lấy chút ít xạ hương để trên miếng sắt mà đốt, thì thấy cháy xèo xèo như đốt tóc toả mùi thơm mà không có mùi khét, toàn bộ cháy gần hoá ra tro, hoặc còn lại cũng rất ít, xạ giả chất than còn lại rất nhiều.
- Những thứ trộn lẫn vào xạ hương, phần nhiều hay lẫn thứ huyết khô, miếng thịt khô thái vụn hoặc bột chì hoặc đất cát trộn vào, nếu cho Xạ hương ấy vào than đỏ mà đốt thì khối thịt, huyết khô mà cháy thì khét, chất chì thì không cháy, đất cát còn lại.
Lấy xạ hương và cách chế biến:
- Bắt được Cầy hương để nó nằm im nửa giờ cho xạ hồi về. Xẻo lấy túi xạ: có người treo trong nhà âm Can  đến khi khô, có người lấy lá trầu bọc lại (hoặc là long não) cho đến khô, vì cho là da túi hay bị thối. Cũng có người đem tẩm rượu phơi râm cho khô, rồi lại tẩm, âm Can  (3 lần). Khi túi xạ khô rồi thì bỏ vào lọ đậy kín.
- Lại có người chế xạ hương theo cách sau đây: lấy một dùi sắt nung đỏ lăn cho cháy hết lông túi xạ, để làm khô túi. Sau đó thái mỏng, đặt vào một cái bát, lấy cái bát khác nhỏ hơn úp vào, trét kín bằng lá khoai và cám đã làm nhuyễn rồi đun nóng nhẹ. Muốn biết thế nào là vừa, đặt lên bát úp một lá trầu. Khi nào lá trầu khô là được, mở bát ra, cạo lấy phấn xạ bám lên lòng bát úp, cho vào lọ nút kín.
- Người ta không cạo lông túi xạ vì sợ làm mỏng túi, xạ bay đi.
Thành phần hóa học :
. Xạ hương có chất Cholesterine, chất béo, một chất nhựa trắng, muối calci và amoniac với tỉ lệ thay đổi, một tinh dầu có thành phần chủ yếu là một chất ceton gọi là muscone, đây là hoạt chất thơm độc nhất của Xạ hương. Tỉ lệ muscone trong Xạ hương là khoảng 1% (Những Cây Thuốc Và Vị Thuốc Việt Nam).
. Có một tinh dầu gọi là muscone, tỉ lệ khoảng 1,58-1,84% (Trung Dược Học).
. Xạ hương còn có normuscone và các thành phần khác như protid, các hợp chất nltrogen (acid amine, urê), muốl vô cơ (Ca, K, Na, Mg, Fe, Cl. Phospho ) (Hiện Đại Trung Dược Học).
Tác dụng dược lý :
. Đối với hệ thần kinh trung ương:  Liều nhỏ Xạ hương và chất muscone ceton Xạ hương có tác dung hưng phấn hệ thần kinh trung ương. Nhưng liều cao thì lại ức chế. Thuốc làm giảm rõ phù não, tăng sư thích nghi của hệ thần kinh trung ương đối với trang thái thiếu oxy, cải thiện tuần hoàn não. Nhờ các tác dung trên mà thuốc có tác dụng khai khiếu (tỉnh não) (Trung Dược Học).
. Đối với hệ tuần hoàn, hô hấp: thuốc có tác dụng hưng phấn tim cô lập. Thuốc Xa hương 1mg/1m tưới vào tlm cô lập của chuột giang làm cho lưu lượng máu của động mach vành tăng gấp đôi. Ceton cuả Xạ hương nhân tạo hoặc thiên nhiên  chích tĩnh mạch cho mèo được gây mê, có tác dụng nâng huyết áp và tăng tần số hô hấp (Trung Dược Học).
. Tác dung kháng khuẩn và kháng viêm : 2% ceton Xạ hương dịch pha 1% loãng 1 : 400. in vitro có tác dụng ức chế tụ cầu vàng, trực khuẩn đai tràng (E coli), khuẩn thổ tả heo, thuốc còn có tác dụng kháng viêm trên mô hình gây viêm khớp cho chuột đồng (Trung Dược Học).
. Tác dụng đối với tử cung: Thuốc có tác dụng hưng phấn rõ rệt đối với tử cung cô lập của thỏ nhà, chuột đồng và chuột Hà lan, tác dụng hưng phấn đối với tử cung có thai càng mạnh hơn (Trung Dược Học).
. Tác dụng chống ung thư : thuốc có tác dụng ức chế tế bào ung thư, đối với các loại ung thư thực quản, ung thư tuyến bao tử, ung thư đại trường. ung thư bàng quang. Nồng độ cao tác dụng mạnh nhưng đối với ung thư tâm vị lại không có tác dung rõ rệt (Hiện Đại Trung Dược Học).
+ Trị bệnh mach vành : Xa hương nhân tạo, làm thành viên lactose ngậm dưới lưỡi,  trị cơn đau thắùt ngực 160 ca. Trong 119 ca (74,4%) thuốc bắt đầu có tác dụng cũng nhanh như nitroglycerine, trong 27 ca (16~9%) tác dụng chậm hơn, số còn lại không có tác dung như nitroglycerin, dùng hơn 1 viên thì có ca có tác dụng có ca không. Về tác dụng phụ, chỉ có 3 ca có nôn nhẹ, không có đau đầu chóng mặt, không làm thay đổi mach và huyết áp (Chinese Hebral Medicine).
. Muscone ché thành thuốc phun sương và ngậm, dùng trị cho 367 ca đau thắt ngực, bệnh mạch vành. Kết quả tốt (Báo cáo của Trần Gia Thanh, tập kỷ yếu nghiên cứu thành phẩm Trung Dược 1981, 9 : 31).
. Dùng Xạ hương, Nha tạo, Bạch chỉ, chế thành cao dán, mỗi lần dán 2 miếng ở vùng đau trước tim và huyệt Tâm du, cứ 24 giờ thay 1 lần. Trị 287 ca, tỉ lệ kết quả 81,9%, kết qủa tốt 28,6% (Báo cáo của Ninh Tuyến , tạp chí Trung Tây Y Kết Hợp – 1988, 7 : 409).
+ Trị bênh viêm gan  mạn và xơ gan thời kỳ đầu: dùng dịch chích Xạ hương 5%, luân lưu chích vào 2 huyệt Chương môn, Kỳ môn 2 bên, mỗi lần 2ml, 1 tuần 1 lần, 4 tuần là một liệu trình. Trị 32 ca, kết quả tốt (Báo cáo của Từ Thừa Qui, Tạp chí Trung y Thiên Tân 1987, 5 : 20).
+ Trị bong gân vùng eo lưng . Dùng dịch chích Xạ hương 0,2% chích vào A thị huyệt, điểm đau nhất. Mỗi lần 2-4ml, mỗi tuần 1 lần. 2 tuần là một liệu trình, theo dõi 21 ca kết quả tốt (Bảo cáo của Triệu Hương Cương, báo Tân Trung Y 1985, 4 : 26).
+ Trị bạch điến phong: dùng dịch chích Xạ hương 0,4% chích dưới da vùng bệnh nhiều điểm, lượng tùy theo vùng bệnh to nhỏ. Một tuần 2  lần, 3 tháng là một liều trình, thường là 2-3 liệu trình Theo dõi 78 ca, tỉ lệ kết quả 83:33% (Liêu Tuy Lâm và cộng sự,  Hồ Nam Y Học Viện Hoc Báo 1980, 2 : 157).
+ Trị nhau thai không ra, thai chết luu: Hương Quế Tán: Xạ hưong 0,15g, Nhục quế 1,5g, tán bột, chia làm 2 lần, uống với nước nóng (Hiện Đại Trung Dược Học).

Tính vị :
. Vị cay, tính ôn
. Vị cay, tính  ôn (Bản Kinh).
. Không độc (Danh Y Biệt Lục).
. Vị đắng cay (Dược Tính Bản Thảo).
Quy kinh :
. Vào kinh Tâm, Can, Tỳ, thông suốt 12 kinh
.  Vào kinh túc Thái âm, thủ Thiếu âm (Bản Thảo Hội Ngôn).
.  Vào kinh Tâm, Can (Bản Thảo Tái Tân).
Tác dụng, Chủ trị :
. Chủ trị ác khi, ôn ngược, cồ độc (con sâu độc), khứ độc. Tri động kinh, uống lâu có tác dụng trừ tà (Bản Kinh).
. Chủ trị các chứng hung tà quỉ khí, trúng ác, tâm phúc bạo thống, trướng cấp, bỉ mãn phong độc, đàn bà sinh khó,  truỵ thai, trừ nốt ruồi ở mặt, mắt có mộng thịt,  uống lâu tinh thần minh mẫn (Danh Y Biệt Lục).
. Trừ độc nhờ hương thơm (Bản Thảo Kinh Tập Chú).
. Tịch tà khí, sát quỉ độc, ngược tật, thôi sinh, truỵ thai, sát trùng ở tạng phủ, ngăn ngừa rắn và trùng cắn, thổ phong đàm, nạp tử cung, làm ấm tạng thủy, chủ lãnh đái, trị tất cả loại bệnh nguy hiểm, hư tổn (Nhật Hoa Tử Bản Thảo).
. Trị không phân biệt được mùi thơm thối (Thang Dịch Bản Thảo).
. Thông quan, lợi khiếu, thướng đạt cơ phu, nội nhập cốt tủy. Các chúng thương hàn âm độc, nội thương, tích tụ và phu nhân tử cung lạnh, bạch đới đều dùng tốt. Khớp thông, lạnh tan thì dương khí tự hồi vậy (Y Học Nhập Môn ).
. Thông các khiếu,  khai kinh lạc, thấu cơ cốt, giải độc rượu, tiêu thực tích. Trị trúng phong, trúng khí, trúng ác (độc), đàm quyết, tích tụ, trưng hà. Xa hương đi xuyên cơ thể, thông các khiếu bị nghẽn, khai ủng tắc  kinh lạc. Nếu các chứng phong, chứng khí, chứng huyết, chứng đau kinh quyết, trưng hà, kinh lạc ủng bế không khiếu bất thông mà không dùng Xạ hương để khai thì thông  làm sao được?” (Bản Thảo Cương Mục).
+ Trừ các chưng ác sang, trĩ lậu, sưng đau. nước mú thớt thối mật sạm ban chẩn (Cảnh Nhạc Toàn Thư ).
. Khai khiếu, tỉnh thần, hoạt huyết, tán kết, chỉ thống, thôi sản. Chủ trị các chứng nhiệt nhập tâm bào, các bệnh ôn nhiệt, mụn nhọt sưng độc, trùng tích, kinh bế, kinh phong, kinh giản, trúng phong (chứng bế), tâm phúc bạo thống, té ngã tổn thương, nhau thai không ra (Trung Dược Học).
 Xưa kia Tây y hay dùng xạ hương làm chất trấn kinh, cường dương, điều kinh v.v... dưới dạng cồn xạ hương với liều 6 - 10g một ngày, cồn này pha thành thuốc uống, nay ít dùng.
Kiêng ky: người suy nhược, sức yếu, phụ nữ  có thai không được dùng.
Cách bào chế:
Theo Trung Y: Dùng nước nóng, nhúng ướt cạo sạch lông da, mở túi xạ ra, thái mỏng nhỏ và nghiền bột dùng.
Theo kinh nghiệm Việt Nam: Khi dùng xạ khô thì lấy dao sắc chích túi ra, lấy hạt xạ, thường chỉ to bằng nửa hạt gạo, vàng xám, bỏ lọ đậy kín. Khi dùng lấy một tý, rồi lại cất đi. Còn túi xạ khi dùng đến đâu thì mài với ít nước, gạn lấy nước mà dùng, còn thì lại phơi khô cất đi.
- Nhưng có người khi lấy hạt xạ ra rồi, còn túi thì đem sao đen rồi tánthành bột mịn; sau đó cho hạt xạ cùng tán cho đều, đựng lọ kín.
- Cũng có người sau khi lấy hạt xạ cất riêng rồi còn túi thì đem ngâm rượu, lọc đi để uống.
- Còn có người cho vào lọ đựng hạt Xạ một số cốm chuồi đã rang (miền Bắc gọi là bỏng rang) đậy kín. Khi dùng lấy cốm chuồi ra dùng, hết lại cho cốm chuồi khác vào.
Hòn dái con cầy hương đem sao với cát nóng cho khô tán bột để dùng.
Bảo quản: cần để vào lọ thật kín, để nơi khô ráo, tránh nóng ẩm làm mất
mùi thơm. cũng cần để xa các chất có mùi thơm khác như Băng phiến, Bạc hà dễ bị bắt mùi.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét