I. NGŨ
TẠNG
Tạng là các bộ phận cơ
thể có nhiệm vụ chuyển hoá và tàng trữ tinh, khí, thần, huyết, tân, dịch. Có 5
tạng: tâm (phụ là tâm bào lạc), can, tỳ, phế, thận.
1.1. Tâm
Tạng tâm đứng đầu các
tạng, có tâm bào lạc bảo vệ bên ngoài, phụ trách các hoạt động về thần chí,
huyết mạch, khai khiếu ra lưỡi biểu hiện ra ở mặt.
1.1.1. Chủ về thần chí
Thần chí là các hoạt
động về tinh thần, tư duy. Tinh và huyết là cơ sở cho hoạt động tinh thần, mà
tâm lại chủ về huyết nên tâm cũng chủ về chí, tâm là nơi cư trú của thần vì vậy
nói là “tâm tàng thần”.
Tâm khí và tâm huyết đầy
đủ thì tinh thần sáng suốt, tỉnh táo. Tâm huyết không đầy đủ xuất hiện các
triệu chứng bệnh như: hồi hộp, mất ngủ, hay mê, hay quên. Tâm huyết có nhiệt
thì có thể thấy mê sảng, hôn mê v.v…
1.1.2. Chủ về huyết
mạch, biểu hiện ra ở mặt
Tâm khí thúc đẩy huyết
dịch trong mạch đi nuôi dưỡng toàn thân. Nếu tâm khí đầy đủ, huyết dịch vận
hành không ngừng, toàn thân được nuôi dưỡng tốt, biểu hiện ở nét mặt hồng hào
tươi nhuận, trái lại tâm khí bị giảm sút, sự cung cấp huyết dịch kém đi thì sắc
mặt xanh xao, có khi huyết dịch bị ứ trệ gây các chứng mạch sáp, kết lại, ứ
huyết v.v…
1.1.3. Khai khiếu ra
lưỡi
Biệt lạc của tâm thông
ra lưỡi, khí huyết của tâm đi ra lưỡi để duy trì hoạt động của chất lưỡi.
Trên lâm sàng xem chất
lưỡi để chẩn đoán bệnh ở tâm: như chất lưỡi đỏ là tâm nhiệt, chất lưỡi nhạt là
tâm huyết hư, chất lưỡi xanh có điểm ứ huyết là huyết ứ trệ v.v...
1.1.4. Tâm bào lạc
Là tổ chức bên
ngoài của tâm để bảo vệ không cho tà khí xâm nhập vào tâm.
Trên thực tế lâm sàng
các triệu chứng của bệnh của tâm và tâm bào lạc giống nhau: như trong bệnh
truyền nhiễm có sốt (ôn bệnh) chứng hôn mê được gọi là “nhiệt nhập tâm bào”
giống như chứng hôn mê của tâm nhiệt.
1.1.5. Ngoài ra người ta
còn chú ý đến quan hệ sinh khắc, biểu lý với các tạng phủ khác: tâm hoả sinh tỳ
thổ, khắc phế kim, tâm và tiểu trường có quan hệ biểu lý
1.2.
Can
Can chủ về tàng huyết,
chủ về sơ tiết, chủ cân, khai khiếu ra mắt, vinh nhuận ra móng tay, móng chân.
1.2.1. Chủ về tàng huyết
Tàng huyết là tàng trữ
về điều tiết lượng máu trong cơ thể. Lúc nghỉ ngơi, lúc ngủ nhu cầu về huyết
dịch ít, máu được tàng trữ ở can; trái lại lúc hoạt động, lao động nhu cầu dinh
dưỡng của cơ thể đòi hỏi cao hơn, can lại bài xuất khối lượng máu dự trữ để
cung cấp kịp thời.
Chức năng tàng huyết của
can bị rối loạn sẽ ảnh hưởng đến các tạng phủ và sinh các triệu chứng bệnh: như
can huyết không đầy đủ thấy hoa mắt, chóng mặt, chân tay co quắp, kinh nguyệt
ít có thể bế kinh…Can khí bị xúc động, huyết đi lạc đường, có thể thấy các hiện
tượng xuất huyết như nôn ra máu, chảy máu cam, băng huyết, rong huyết…
1.2.2. Chủ về sơ tiết
Sơ tiết là sự thư thái,
thông thường còn gọi là “điều đạt”. Can khí chủ về sơ tiết giúp cho sự vận hành
của khí các tạng phủ được dễ dàng, thông suốt, thăng giáng được điều hoà. Can
khí sơ tiết kém sẽ có những biểu hiện bệnh lý đặc biệt ở tình chí và sự tiêu
hoá.
Về tình chí, ngoài tạng
tâm đã nêu ở trên, còn do tạng can phụ trách. Can khí bình thường, thì khí
huyết vận hành điề hoà, tinh thần thoải mái.Trái lại can huyết sơ tiết kém sẽ
gây tình trạng khí bị uất kết hay hưng phấn quá độ. Can khí uất kết biểu hiện:
ngực sườn đầy tức, u uất, hay thở dài, kinh nguyệt không đều, thống kinh…Can
khí xung thịnh gây cáu gắt, hoa mắt, chóng mặt, ù tai…
Về tiêu hoá: sự sơ tiết
của can có ảnh hưởng lớn đến sự thăng giáng của tỳ vị. Nếu can khí uất kết hay
can khí hoành nghịch có thể thấy các triệu chứng đau cạnh sườn, đau
thượng vị, ăn kém, ợ hơi, ợ chua, ỉa chảy gọi là chứng “can tỳ bất hoà” hay
“can vị bất hoà”…
1.2.3. Chủ cân, vinh
nhuận ra móng tay, móng chân
Cân là cân mạch gồm các
khớp, gân, cơ, phụ trách việc vận động của cơ thể. Nói can chủ cân tức là can
nuôi dưỡng các cân bằng huyết của can (can huyết: can huyết đầy đủ, cân mạch
được nuôi dưỡng tốt, vận động tốt, trái lại can huyết hư sẽ gây các chứng tê
bại, chân tay run, co quắp, teo cơ, cứng khớp…Nếu sốt cao, huyết dịch hao tổn
không dưỡng cân gây co giật, tay chân co quắp.
Móng tay móng chân là
chỗ thừa của cân mạch, nên tình trạng thiếu đủ của can huyết sẽ có những biểu
hiện hồng nhuận cứng cáp hay nhợt tái thay đổi hình dạng (móng tay uốn khum)
1.2.4. Khai khiếu ra mắt
Tinh khí của ngũ tạng
thông qua huyết dịch đều đi lên mắt, nhưng chủ yếu là do tạng can vì can tàng
huyết và kinh can đi lên mắt
Can khí thực do phong
nhiệt gây chứng mắt đỏ, sưng, đau; can huyết hư gây quáng gà, giảm thị lực. Can
phong nội động gây miệng méo, mắt lác..
1.2.5. Ngoài ra can mộc
còn sinh tâm hoả, khắc tỳ thổ và có quan hệ biểu lý với đởm
1.3. Tỳ
Tạng tỳ ở trung tiêu,
chủ về vận hoá nước và đồ ăn, thống huyết, chủ cơ nhục và tứ chi, khai khiếu ra
miệng, vinh nhuận ở môi.
1.3.1. Chủ về vận hoá:
tỳ chủ về vận hoá đồ ăn và thuỷ thấp
a. Vận hoá đồ ăn: là sự
tiêu hoá, hấp thu và vận chuyển các chất dinh dưỡng của đồ ăn. Sau khi tiêu
hoá, các chất tinh vi được tỳ hấp thu và chuyển vận lên phế, phế đưa vào tâm
mạch để đi nuôi dưỡng các tạng phủ, tứ chi, cân, não
Công năng vận hoá đồ ăn
của tỳ mạnh gọi là sự “kiện vận” thì sự hấp thu tốt trái lại nếu tỳ mất “kiện
vận” sẽ gây các chứng rối loạn tiêu hoá: ăn kém, ỉa chảy, mệt mỏi, gầy…
b. Vận hoá thuỷ thấp: tỳ
đưa nước đến các tổ chức cơ thể để nuôi dưỡng, sau đó chuyển xuống thận ra bàng
quang bài tiết ra ngoài. Như vậy việc chuyển hoá chuyển hoá nước trong cơ thể
do sự vận hoá của tỳ phối hợp với sự túc giáng của phế và sự khí hoá của thận.
Sự vận hoá thuỷ thấp của
tỳ kém sẽ gây chứng đàm ẩm, khiến cho nước tràn ra tứ chi gây phù thũng, xuống
đại trường gây ỉa chảy, đến khoang bụng thành cổ trướng…
1.3.2. Thống huyết
Thống huyết hay
còn gọi là nhiếp huyết có nghĩa là quản lý, khống chế huyết. Sự vận hoá đồ ăn
của tỳ là nguồn gốc của khí và huyết, nhưng tỳ còn thống huyết. Tuỳ khí mạnh
huyết sẽ đi trong mạch, được khí thúc đẩy đi nuôi dưỡng cơ thể, trái lại tỳ khí
hư sẽ không thống được huyết, huyết sẽ ra ngoài gây các chứng xuất huyết như
rong huyết, đại tiện ra máu lâu ngày…
1.3.3. Chủ cơ nhục, chủ
tứ chi
Tỳ đưa các chất dinh
dưỡng của đồ ăn đến nuôi dưỡng cơ nhục, nếu tỳ khí đầy đủ sẽ làm cho cơ
nhục rắn chắc, tứ chi nhẹ nhàng linh hoạt; trái lại nếu tỳ khí yếu sẽ làm thịt
mềm, trương lực cơ giảm gây tứ chi mệt mỏi, gây các chứng thoát vị: như sa trực
tràng, sa sinh dục, sa dạ dày…
1.3.4. Khai khiếu ra
miệng, vinh nhuận ra môi
Khai thiếu ra miệng là
nói về sự ăn uống, khẩu vị
Tỳ mạnh thì muốn ăn, ăn
ngon miệng, nếu tỳ hư thì chán ăn, miệng nhạt
Tỳ chủ về cơ nhục, lại
khai khiếu ra miệng nên biểu hiện sự vinh nhuận ra môi: tỳ mạnh thì môi hồng
thuận, tỳ hư thì môi thâm xám, nhạt màu.
1.3.5. Tỳ còn sinh ra
phế kim, khắc thận thuỷ có quan hệ biểu lý với vị
1.4. Phế
Phế chủ hô hấp, chủ khí,
có tác dụng tuyên phát và túc giáng, khai khiếu ra mũi và bên ngoài hợp với bì
mao (da lông)
1.4.1. Chủ khí, chủ hô
hấp
- Phế là nơi trao đổi
khí: hít thanh khí, thải trọc khí nên nói phế chủ hô hấp
- Phế chủ khí, vì phế có
liên quan đến tông khí. Tông khí được tạo thành bởi khí của đồ ăn do tỳ khí đưa
tới kết hợp với khí trời do phế khí đưa tới, tông khí được đưa vào tâm mạch đi
toàn thân dinh dưỡng tổ chức.
Phế khí bình thường,
đường hô hấp thông, thì hơi thở điều hoà; trái lại phế khí hư kém xuất hiện
chứng khó thở, thở nhanh, tiếng nói nhỏ, người mệt mỏi không có sức…
1.4.2. Chủ về tuyên phát
và túc giáng
a. Tuyên phát: có ý
nghĩa là thúc đẩy sự tuyên phát của phế (gọi tắt là sự tuyên phế) thúc đẩy, khí
huyết, tân dịch phân bố ra toàn thân, bên trong đi vào các tạng phủ, kinh lạc,
ngoài đi tới, bì mao, cơ nhục, không nơi nào không đến. Nếu phế khí không tuyên
thì sẽ gây sự ủng trệ có các triệu chứng như tức ngực, ngạt mũi, khó thở…
b. Túc giáng là đưa phế
khí đi xuống: phế khí đi xuống là thuận, nếu phế khí nghịch lên trên uất tại
phế sẽ có các triệu chứng: khó thở, suyễn tức..
1.4.3. Phế chủ bì mao
thông điều thuỷ đạo
a. Bì mao là phần ngoài
cùng của cơ thể gồm da, lông, tuyến mồ hôi, là nơi tà khí bên ngoài bắt đầu xâm
nhập vào cơ thể. Tác dụng tuyên phát phế đem các chất dinh dưỡng cho bì mao.
Vệ khí cũng tuyên phát
ra bì mao để chống đỡ ngoại tà. Vì vậy khi có bệnh ở phần biểu thường thấy xuất
hiện các chứng ở vệ và phế phối hợp với nhau như ngoại cảm phong hàn: sợ lạnh,
sợ gió, ngạt mũi, ho…
Nếu phế khí hư yếu,
không tuyên phát ra bì mao làm da lông khô sáp, lưa thưa đưa tới cơ năng bảo vệ
của bì mao bị giảm sút nên dễ bị cảm mạo…
b. Phế còn tác dụng
thông điều thuỷ đạo. Nhờ tác dụng tuyên phát và túc giáng, nước trong ở cơ thể
được bài tiết ra bằng đường mồ hôi, hơi thở, đại tiện như chủ yếu là do nước
tiểu. Phế khí đưa nước tiểu xuống thận, ở thận nước tiểu được khí hoá một phần
đưa xuống bàng quang và bài tiết ra ngoài.
Trên lâm sàng bệnh phù
thũng do phong thuỷ (viêm cầu thận do lạnh) được chữa bằng phương pháp tuyên
phế lợi niệu.
1.4.4. Khai khiếu ra
mũi, thông với họng, chủ về tiếng nói
Mũi là hơi thở của phế,
để thở và ngửi thông qua tác dụng của phế khí. Phế khí bình thường thì sự hô
hấp điều hoà, nếu phế khí trở ngại như ngoại tà xâm nhập thì gây ngạt mũi, chảy
nước mũi, không ngửi thấy mùi, phương pháp chữa bệnh vẫn lấy tuyên phế là
chính.
Phế còn chủ về tiếng nói
và thông ra họng. Bệnh ở phế luôn thấy xuất hiện các chứng ở họng và tiếng nói
và thông ra họng mất tiếng…
1.4.5. Phế còn sinh thận
thuỷ, khắc can mộc và có quan hệ biểu lý với đại trường
1.5. Thận
Thận chủ về tàng tinh,
chủ cốt tuỷ, chủ về sinh dục và phát dục của cơ thể, chủ nạp khí, chủ thuỷ,
khai khiếu ra tai, tiền âm, hậu âm và vinh nhuận ra tóc
1.5.1. Thận tàng tinh,
chủ về sinh dục và phát dục của cơ thể
Tinh của tiên thiên và
tinh của hậu thiên đều được tàng trữ ở thận gọi là thận tinh. Tinh biến thành
khí nên còn có thận khí.
Thận tinh còn gọi là
thận dương, nguyên dương, chân dương, mệnh môn hoả. Thận tinh và thận khí quyết
định sự sinh dục và phát dục của cơ thể từ lúc nhỏ tới già như mọc răng, tuổi
trưởng thành sinh con cái (gọi là thiên quý thịnh) và lão suy (thiên quý suy)
Như trong sách Nội kinh
có nói: “con gái 7 tuổi thì thiên quý thịnh, răng thay tóc dài, 14 tuổi thì
thiên quý đến mạch nhâm thông với mạch xung, vì vậy lúc đó người con gái thấy
kinh. Thường đời người con gái có 7 thiên quý ( 7x7 = 49) lúc đó mạch nhâm yếu,
mạch xung kém, thiên quý cạn hết, kinh nguyệt không còn, nên thân thể yếu đuối.
Con trai lúc 8 tuổi thận
khí thực, tóc tốt, răng thay, 16 tuổi thận khí thịnh thiên quý đến, tinh
khí đầy 24 tuổi thận khí điều hoà, thân thể cường tráng mạnh khoẻ, 64 tuổi thận
khí kém, tóc rụng, răng khô, lục phủ ngũ tạng đều suy yếu, thiên quý cạn nên
râu tóc bạc, người mệt mỏi…”
Thận âm và thận dương,
nương tựa vào nhau, chế ước lễ nhau giữ thế bình quân về âm dương. Nếu thận hư
không có hiện tượng hàn hay nhiệt thì gọi là thận tinh hư hay thận khí hư. Nếu
có hiện tượng nội nhiệt là do thận âm hư. Nếu có hiện tượng ngoại hàn (sợ lạnh,
tay chân lạnh) là do thận dương hư.
1.5.2. Chủ về khí hoá
nước.
Thận khí có chức năng
khí hoá nước tức là đem nước do đồ ăn uống đưa tới nước cho tổ chức cơ thể và
bài tiết nước ra ngoài.
- Sự chuyển hoá nước
trong cơ thể do 3 tạng phụ trách: tỳ vận hoá hấp thu đưa lên phế, phế túc giáng
xuống thận, ở thận được khí hoá những chất trong (có ích) được lên phế phân bố
đi toàn thân, những chất đục được đưa xuống bàng quang thải ra ngoài.
Vì vậy trên lâm sàng,
căn cứ vào vị trí trở ngại, người ta chữa chứng phù thũng ở tỳ, ở phế hay ở
thận.
1.5.3. Chủ về xương,
tuỷ, thông với não và vinh nhuận ra tóc
Tinh được tàng trữ ở
thận,tinh sinh tuỷ, tuỷ vào trong xương, nuôi dưỡng xương, nên gọi là thận chủ
cốt sinh tuỷ. Nếu thận hư, làm sự phát dục của cơ thể giảm sút gây hiện tượng
chậm mọc răng, chậm biết đi, xương mềm yếu…
Tuỷ ở cột sống lên não,
thận sinh tuỷ, nên gọi là thận thông với não, không ngừng bổ sung tinh tuỷ cho
não. Thận hư (thường do thiên nhiên) làm não không phát triển sinh các chứng:
trí tuệ chậm phát triển,tinh thần đần độn, kém sự thông minh…
Huyết do tinh sinh ra,
tinh tàng trữ ở thận, tóc là sản phẩm “thừa ra” của huyết, được huyết
nuôi dưỡng, vì vậy thận là căn nguyên sinh ra tóc. Sự thịnh suy của thận có
quan hệ mật thiết với tóc như bẩm sinh thận khí bất túc thì tóc mọc thưa thớt,
thanh niên khoẻ mạnh thì tóc tốt nhuận, người già thận khí yếu thì tóc bạc,
rụng tóc….vì vậy nói: thận vinh nhuận ra ở tóc.
1.5.4. Nạp khí
Không khí do phế hít vào
được giữ lại ở thận gọi là sự nạp khí của thận
Nếu thận hư không nạp
được phế khí làm phế khí nghịch lên gây chứng ho hen, khó thở. Trên lâm sàng
người ta chữa chứng hen suyễn, chứng ho ở người già, bằng phương pháp bổ thận
nạp khí.
1.5.5. Khai khiếu ra tai
và tiền âm, hậu âm
Tai do thận tinh nuôi
dưỡng, thận hư sẽ gây tai ù, tai điếc. Ở người già thận khí, thận tinh suy yếu
nên hay gặp chứng tù tai, điếc.
Tiền âm là nơi bài tiết
nước tiểu, bộ phận sinh dục nam hay nữ, thận chủ về khí hoá bài tiết nước tiểu
và sự sinh dục vì vậy gọi là thận chủ về hậu âm. Thận hư hay gặp chứng đi tiểu
luôn ở người già, chứng đái dầm ở trẻ em chứng di tinh, ra khí hư…
Hậu âm là nơi đại tiện
ra phân, do tạng tỳ đảm nhiệm. Nhưng tỳ dương được thận khí hoá để bài tiết
phân ra ngoài nên còn gọi là thận chủ về hậu âm. Nếu thận khí hư hay gặp chứng
đại tiện lỏng, đại tiện ở người già.
Hậu âm và tiền âm thường
quản lý đại tiện và tiểu tiện nên còn nói “thận chủ nhị tiện”.
1.5.6. Ngoài ra, thận
thuỷ còn sinh ra can mộc và khắc tâm hoả, có quan hệ biểu lý với bàng quang
II. LỤC PHỦ
Phủ là các bộ phận của
cơ thể có nhiệm vụ thu nạp, tiêu hoá, hấp thụ, chuyển vận các chất từ đồ ăn
uống và bài tiết các chất cặn bã của cơ thể ra ngoài. Có 6 phủ: đởm, vị, tiểu
đường, đại trường, bàng quang và tam tiêu.
2.1. Đởm
Đởm có quan hệ biểu lý
với can, chứa chất mật (tinh chấp) do can bài tiết. Cổ nhân nói: “khí thừa của
can tràn vào mật, tụ lại thành tinh chấp”. Mật giúp cho việc tiêu hoá đồ ăn. Chất
mật có màu xanh, vàng và vị đắng. Khi có bệnh ở đởm thường xuất hiện chứng vàng
da, miệng đắng, nôn mửa ra chất đắng.
Đởm còn có chức năng về
tinh thần, chủ về quyết đoán.
Can và đởm có quan hệ
biểu lý, can chủ về mưu lự, đởm chủ về quyết đoán là cơ sở của lòng dũng cảm,
tinh thần giám nghĩ giám làm. Các bệnh về can đởm hay phối hợp với nhau.
2.2. Vị
Vị chứa đựng và làm nhừ
đồ ăn, đưa xuống tiểu trường. Tỳ và vị có liên quan biểu lý với nhau, đều giúp
cho sự vận hoá đồ ăn, nên gọi chung là “gốc của hậu thiên”.
Trên lâm sàng, công tác
chuẩn đoán và chữa bệnh đều rất chú trọng đến sự thình suy của tỳ vị. Khí của
tỳ vị gọi tắt là “vị khí” dùng để tiên lượng sự phát triển tốt hay xấu của bệnh
và dự kiến của kết quả công tác chữa bệnh, nên người xưa có nói: “vị khí là gốc
của con người”, “còn vị khí sẽ sống, hết vị khí sẽ chết”. Bảo vệ vị khí là một
nguyên tắc chữa bệnh của YHCT.
2.3. Tiểu trường
Tiểu trường có nhiệm vụ
phân thanh, giáng trọc. Thanh (chất trong) là chất tinh vi của đồ ăn được hấp
thụ ở tiểu trường, qua sự vận hoá của tỳ đem đi nuôi dưỡng toàn thân,cặn bã sẽ
được đưa đến bàng quang để bài tiết qua ngoài. Trọc (chất đục) là cặn bã của đồ
ăn đựơc tiểu trường đưa xuống đại trường.
Khi tiểu trường có bệnh,
việc phân thanh giáng trọc bị trở ngại gây các chứng: sống phân, ỉa chảy, tiểu
tiện ít v.v…
2.4. Đại trường
Đại trường chứa đựng và
bài tiết các chất cặn bã, có quan hệ biểu lý với phế.
2.5. Bàng quang
Bàng quang chứa đựng và
bài tiết nước tiểu thông qua sự khí hoà vạư phối hợp của tạng thận.
Nếu sự hoá khí của thận
không tốt sẽ gây bí tiểu tiện, đái dắt hoặc đái nhiều lần, tiểu tiện không tự
chủ v.v…
2.6. Tạm tiểu
Tạm tiêu gồm thượng
tiêu, trung tiêu, trung tiêu. Thượng tiêu từ miệng xuống tâm vị dạ dày có tạng
tâm và phế. Trung tiêu từ tâm vị dạ dày đến môn vị có tạng tỳ và phủ vị. Hạ
tiêu từ môn vị dạ dày đến môn vị có tạng tỳ và phủ vị. Hạ tiêu từ môn vị dạ dày
xuống hậu môn có tạng can và thận.
Sự hoạt động của tam
tiêu biểu hiện ở sự khí hoá và sự vận chuyển đồ ăn, ở thượng tiêu: Phế chủ hô hấp,
phân bố khí và chất dinh dưỡng vào huyết mạch được tâm khí đưa đi toàn thân; ở
trung tiểu tỳ vị vận hoá hấp thu đồ ăn và đưa nước lên phế, ở hạ tiêu có sự
phân biệt thanh trọc, tinh tàng trữ ở thận, các chất cặn bã được thải ra ngoài
bằng đường đại tiện và tiểu tiện.
Người ta còn nói tam
tiêu chủ việc bảo vệ các tạng phủ trong cơ thể.
III. QUAN HỆ GIỮA CÁC
TẠNG PHỦ
Mỗi tạng hay phủ có chức
năng riêng biệt, nhưng chúng có quan hệ với nhau theo quy luật vừa đối lập vừa
nương tựa với nhau để tạo cho cơ thể thanh một khối thống nhất về cấu tạo và
chức năng.
3.1. Quan hệ giữa tạng
với tạng
3.1.1. Tâm và phế
Tâm chủ huyết, phế chủ
khí. Tâm và phế phối hợp làm khí huyết vận hành duy trì các hoạt động cơ thể.
Khí thuộc dương, huyết thuộc âm, khí thúc đẩy huyết vận hành, huyết đi kéo theo
khí, nếu khí không thúc đẩy huyết sẽ ngừng lại gây ứ huyết, nếu không có huyết,
khí mất chỗ dựa phân tán mà không thu lại được.
Trên lâm sàng có các
chứng bệnh:
a. Phế khí hư nhược, tông khí trong tâm mạch không đầy đủ gây ra
tâm phế đều hư, tâm khí không thúc đẩy âm huyết, gây ứ huyết, làm đau vùng ngực
(hay gặp ở các bệnh xơ cứng mạch vành).
b. Tâm khí không đầy đủ gấy huyết ứ làm trửo ngại đến phế mạch làm phế
khí không tuyên giáng gây chứng hen suyễn (như hen tim).
c. Tâm chủ về hoả,tâm hoả vượng ảnh hưởng đến phế âm một mặt xấu
hiện các chứng tâm phiền, mất ngủ…, một mặt xuất hiện các chứng ho, ho ra máu…
3.1.2. Tâm và tỳ
Tâm chủ huyết, tỳ sinh
huyết. Nếu tỳ khí hư không vận hoá được thì tâm huyết sẽ kém gấy hiện tượng hồi
hộp, hay quên, mất ngủ, sắc mặt xanh gọi là chứng tâm tỳ hư.
3.1.3. Tâm và can
Can tàng huyết, tâm chủ
huyết. Cả hai tạng phối hợp tạo thành sự tuần hành của huyết. Trên lâm sànghay
thấy xuất hiện chứng can,tâm âm hư hay can, tâm huyết hư: hoảng hốt, hồi hộp sắc
mặt xanh, hoa mắt, chóng mặt, móng tay không nhuận.
Can chủ sơ tiết, tâm chủ
về thần chí. Hoạt động tinh thần chủ yếu do hai tạng tâm và can phụ trách, can
và tâm do huyết nuôi dưỡng, khi chúng có bệnh ngoài các chứng trạng về huyết kể
trên còn có các chứng trạng về tinh thần như mất ngủ hay quên, hôig hộp, sợ
hãi, giạn giữ…
3.1.4. Tâm và thận
Tâm ở trên thuộc hoả,
thuộc dương; thận ở dưới thuộc thuỷ, thuộc âm. Hai tạng giao nhau để giữ được
thế quân bình gọi là “thuỷ hoả ký tế” hay “tâm thận tương giao”.
Trên lâm sàng nếu thận
thuỷ không đầy đủ, không chế ước được tâm hoả gây các chứng: hồi hộp, mất ngủ,
nằm mê miệng lưỡi lở loét gọi là chứng “tâm thận bất giao” hay “âm hư hoả
vương”.
3.1.5. Phế và tỳ
Phế chủ khí, tỳ chủ khí
hậu thiên, cả 2 tạng có liên quan với nhau mật thiết. Chứng khí hư trên lâm
sàng thường xuất hiện: thở ngắn, gấp, nói nhỏ, lười nói (thuộc phế khí hư), mỏi
mệt, ăn kém, ỉa lỏng (thuộc tỳ khí hư).
3.1.6. Phế và thận
Phế chủ khí, thận nạp
khí. Thận hư không nạp được phế khí gây chứng ho, hen suyễn…
3.1.7. Can và tỳ
Can chủ về sơ tiết, tỳ
chủ vận hoá, sự thăng giáng của tỳ vị có quan hệ đến sự sơ tiết của can. Nếu
sức tiết của can bị trở ngại sẽ làm cho sự thăng giáng của tỳ vị trở nên bất
thường hay gây các chứng: ngực sườn đầy tức không muốn ăn, đầy bụng, ợ hơi…hay
gặp ở các bệnh loét dạ dày tá tràng, viêm đại tràng…
3.1.8. Thận và tỳ
Thận dương hay thận khí
giúp cho tỳ vận hoá được tốt, nếu thận dương hư thì tỳ dương cũng hư gây các
chứng ỉa chảy ở người già, viêm thận mạn tính (âm thuỷ).
3.1.9. Can và thận
Can tàng huyết, thận
tàng tinh. Can huyết do thận kinh nuôi dưỡng, nếu thận tinh không đầy đủ sẽ làm
can huyết giảm sút.
Thận có thận âm, thận
dương, can có can âm, can dương. Nếu thận âm hư không nuôi dưỡng được can âm,
thì can dương vượng lên như trong bệnh cao huyết áp xuất hiện các chứng: Nhức
đầu, chóng mặt hoa mắt, mặt đỏ…
3.2.Quan hệ giữa tạng và
phủ.
3.2.1. Tâm và tiểu
trường.
Tâm và tiểu trường có
liên quan biểu lý đến nhau, trên lâm sàng nếu tâm nhiệt ( sốt cao) thường gây
các chứng đái ít, đái đỏ, nước tiểu nóng….Phương pháp chữa là thanh tâm lợi
tiểu.
3.2.2. Tỳ và vị.
Tỳ và vị là hai cơ quan
giúp cho sụ vận hoá đồ ăn. Tỳ chủ vận hoá, vị chủ thu nạp, tỳ ưa táo nghét
thấp, vị ưa thấp nghét táo, tỳ lấy thanưg làm thuận, vị lấy giáng làm hoà. Như
vậy tính chất của tỳ vị đối lập nhau giữa táo và thấp, giữ thăng và giáng nhưng
lại thống nhất với nhau. bổ sung cho nhau để giúp việc tiêu hoá được bình
thường.
Khi tỳ vị có bệnh, sự
thắng giáng có thể đảo nghịch: như tỳ khí đáng lẽ đưa thanh khí (trong) lên
trên, lại đưa xuống dưới gọi là chứng tỳ hư hạ hãm gây các bệnh ỉa chảy,sa sinh
dục, sa trực tràng, băng huyết, rong huyết…tỳ khí đáng lẽ đưa trọc khí (đục) đi
xuống, lại đưa lên trên gây các chứng nôn mửa, nấc…
Tỳ vị có bệnh gây nên sự
đảo lộn về thấp và táo. Tỳ ghét thấp nhưng do tỳ hư không vận hoá được thuỷ
thấp làm thuỷ thấp đình lại gây các chứng mệt mỏi, phug thũng, ỉa lỏng. Vị ghét
táo nhưng do vị hoả quá mạnh làm tân dịch bị khô gây nên vị âm hư có các chứng
táo bón, loét miệng, chảy máu chân răng…
3.2.3. Thận và bàng
quang
Sự khí hoá ở bàng quang
tốt hay xấu đều dựa vào thận khí thịnh hay suy. Nếu thận kém sẽ gây chứng dị
niệu, tiểu tịên không tự chủ, đái dầm…
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét