Phụ nữ mạch ở 2 bộ quan và xích bên trái bỗng nhiên thấy mạch Hồng Đại hơn bên phải, miệng không đắng, cơ thể không sốt, bụng không trướng là sắp sửa hành kinh.
I- MẠCH THỜI KỲ KINH
HÀNH KINH:
Phụ nữ mạch ở 2 bộ quan và xích bên trái bỗng nhiên thấy mạch Hồng Đại hơn bên phải, miệng không đắng, cơ thể không sốt, bụng không trướng là sắp sửa hành kinh.
Mạch ở 2 bộ thốn và quan đều hoạt mà mạch ở bộ xích không đến, phần nhiều là kinh nguyệt không thông.
Mạch bộ thốn và quan bình thường mà mạch bộ xích tuyệt hoặc không tuyệt mà Nhược, Tiểu thì kinh nguyệt không thông
Mạch 3 bộ Trầm Hoản là hạ bộ hư nhược thì hẳn là kinh nguyệt tháng đó quá nhiều.
Mạch Hư Vi mà không có mồ hôi thì 2 tháng mới hành kinh 1 lần.
Mạch cả 3 bộ đều Phù hoặc Trầm mà trong khi Phù hoặc Trầm đó đôi khi lại ngừng hoặc mạch bộ thốn và quan Vi Sáp,
Mạch bộ xích Vi Trì đó là mạch 3 tháng mới hành kinh 1 lần.
Mạch 3 bộ thấy Hư Vi thì kinh nguyệt không thông.
KINH BẾ:
Mạch ở bộ xích mà Vi, Sắc là chứng bế kinh do hư (hư bế), mạch ở bộ xích mà Hoạt là chứng bế kinh do thực .
Tam Tiêu và Đởm thấy mạch Trầm, Tâm và Thận thấy mạch Tế là kinh nguyệt không thông, huyết ngưng lại làm cho kinh không vận hành.
Kinh bế do:
• Huyết Khô : mạch Hư Tế.
• Huyết ứ : mạch Trầm Kết mà Sắc.
• Hàn ngưng : mạch Trầm Trì hoặc Khẩn.
• Nhiệt : mạch Huyền Tế Sác.
• Nhiệt uất : mạch Hư Tế Sác hoặc Hư Huyền.
• Đờm ngăn : mạch Huyền Hoạt.
• Khí uất : mạch Huyền Sác.
• Tỳ Hư : mạch Hư Trì.
II- MẠCH THỜI KỲ THỤ THAI
Đàn bà có thai, huyết khí lưu tụ, trong tử cung dầy đặc, cho nên mạch tự nhiên thấy Hoạt Sác bội thường, đó là lẽ đương nhiên. Nhưng những người đã đứng tuổi và những người khí huyết hư nhược mà thụ thai thì cũng có khi thấy mạch Tế, Tiểu mà không hề thấy Sác. Nhưng trong chỗ Vi, Nhược, Tế, Tiểu đã hẳn phải có thấp thống hình tượng mạch Hoạt Sác... như vậy tức là có thai, phải nên phân biệt cho rõ. Lại như có thai mà mạch Sác, bệnh lao tổn cũng thấy mạch Sác, rất có thể giống nhau, nhưng mạch Sác của chứng lao tổn thường kiêm Huyền Sắc, còn mạch Sác của người có thai thường kiêm hoà hoãn. Xem mạch này phải phân biệt cái khác nhau đó : 1 đằng là tà khí thì có kèm Huyền Sắc, 1 đằng là vị khí thì kèm hòa hoãn. Lại xét kỹ chứng trạng nữa sẽ thấy rõ ngay.
Xem mạch phụ nữ khi mới có thai: mạch bộ thốn Vi, Tiểu mà ngũ chí, còn 2 bộ quan và xích, phù ấn hay trầm ấn đều bình (ngang bằng nhau) mà ấn mạnh tay xuống mạch vẫn còn đi, không tuyệt (mất mạch). Mạch ấy, nếu đã tắt kinh mà không có bệnh gì khác ngồi trạng thái thai nghén thì hẳn là có thai.
Như vậy mạch bộ thốn Vi Tiểu: khí suy, bộ quan bộ xích mạch bình bình không tuyệt, huyết vượng. Khí suy, huyết vượng là dấu hiệu có thai.
Tuy vậy sách dạy xem mạch mới biết có thai mô tả rõ ràng như vậy nhưng khi thực hành mới biết rằng xem mạch khi thai khoảng 1 - 2 tháng rất khó mà xác định cho đúng được.
- Mạch thai 3 tháng, chú trọng vào 2 bộ mạch : bộ thốn bên trái (Tâm) và bộ xích trái (Thận) vì Tâm chủ huyết còn Thận chủ bào thai.
Cả hai bộ mạch này đều mạnh đó là hiện tượng âm mạch mà có dương mạch.
Âm mạch hiện dưới tay mạnh hơn dương mạch là có thai. Âm mạch mà có dương mạch tức là huyết vượng mà khí suy là hiện tượng có thai.
- Thai được 4 tháng mạch phần nhiều thấy Hoạt, Tật, Đại và Thực.
- Thai 5 tháng: ấn nặng tay xem mạch thấy vẫn đi mau mà không Tán .
- Thai 6 - 7 tháng: mạch thấy Thực, Huyền, Khẩn là tốt. Ngược lại, thấy mạch Trầm Tế Sáp thì coi chừng bị hư thai.
- Thai 7 - 8 tháng: mạch Thực, Đại, Huyền, Trường là tốt. Mạch Trầm Tế thì xấu.
- Sách ‘Giản Minh Trung Y Phụ khoa Học’ nêu ra:
+ Mạch có thai:
• Mạch bộ xích Vượng mà Hoạt.
• Mạch ở bộ thốn bên trái động nhiều.
• Mạch đi liền không đứt hoặc bộ xích đi Sác.
• Mạch bộ Tâm (tả thốn) vượng, Mạch Mệnh môn (hũu xích) cường và hoạt lợi.
• Mạch ở 2 bên huyệt thái dương (trán) và Nhân Nghinh (cổ) nhanh, mạnh.
+ Mạch thai mấy tháng:
Mạch ở bộ quan:
• Động 1 cái, ngừng 1 cái: thai 1 tháng.
• Động 2 cái, ngừng 2 cái: thai 2 tháng.
• Động 2 cái, ngừng 3 cái: thai 3 tháng.
Căn cứ theo sự động và ngưng của bộ quan mà tính sẽ biết thai mấy tháng...
Tuy nhiên, nên căn cứ phối hợp thêm với các chứng trạng khác để quyết đoán cho khỏi lầm.
MẠCH THAI NAM HOẶC NỮ
Muốn xem mạch để biết thai trai hoặc gái, phải xem từ tháng thứ tư trở đi vì đến tháng thứ tư, hình thể khí chất của đứa trẻ đã đủ mới hiện ra mạch.
Thai NAM Thai NỮ
+ Tay Trái:
• Hoạt, Thực, Tật, Đại. • Phù Đại.
• Trầm Thực. • Bộ thốn Phù Đại.
• Bộ xích Trái lớn hơn Phải. + Tay Phải:
• Hoạt, Tật, Thực, Đại. • Phù Đại.
• Trầm Thực. • Bộ thốn Trầm Thực.
• Bộ xích Phải lớn hơn Trái.
Cả 2 tay trái và phải đều Trầm Thực: sinh 2 nam. Cả 2 tay trái và phải đều Phù Đại: sinh 2 nữ.
MẠCH THAI SỐNG HOẶC CHẾT
Thốn khẩu mạch Hồng mà Sắc. Hồng là khí, Sắc là huyết. Khí động ở đan điền thì thai sống. Sắc: thai lạnh như băng (chết). Có dương khí thì thai sống, âm khí thì thai chết. Muốn phân biệt âm dương thì ở dưới tất ngừng động. Giả sử dương hết, dấu hiệu thai chết.
Nữ dương hết là dấu hiệu thai chết là nữ có thai tất dương khí động ở đan điền, mạch thấy Trầm Hồng mới có thể ơn dưỡng được thai. Nếu mạch Sắc xuất hiện ở bộ vị trầm (ấn nặng tay mới thấy) là tinh huyết bị suy kém tất sẽ ảnh hưởng đến thai. Vì vậy, trọng án vẫn thấy mạch cường mới có dương khí mà thai sống, nếu ở bộ vị trầm thì thấy dương khí suy kiệt thì thai đã chết hoặc là có huyết khối.
MẠCH SẮP SINH
Phụ nữ có thai thấy mạch ở bộ xích nhẩy gấp, tán loạn tức là sắp sinh .
Hai bên đốt đầu của ngón tay giữa của sản phụ, nếu không phải sắp sinh thì không có mạch,. Nếu chỗ ấy có mạch nhẩy động, bụng đau ran tới eo lưng, đau từng cơn dữ dội, 2 mắt nẩy đom đóm thì đúng là sắp sinh.
Chẩn mạch thấy mạch ở bộ xích chuyển động gấp như cái dây lúc đang bị cắt, như hạt ngọc lúc đang lăn, đó là mạch sắp sinh.
Mạch thai lúc chuyển bụng sắp sinh như thế nào mạch có cũng ‘Ly Kinh’. Mạch ly kinh là 1 hơi thở ra mạch đến 1 lần, Như vậy hễ thấy mạch ly kinh biết rằng sắp sinh.
III. MẠCH THỜI KỲ SAU KHI SINH:
Đàn bà sau khi sinh do thoát huyết nhiều sinh lực yếu kém nên mạch đi trầm tiểu mà tối kỵ phù
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét